Các yếu tố ảnh hưởng đến tái chế và tái sử dụng sản phẩm dệt may ở Việt Nam

Giới trẻ ngày càng có xu hướng ưa chuộng dòng sản phẩm thời trang nhanh, mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc đa dạng, không còn thay đổi theo mùa mà có thể tuần, tháng.

ThS. Đặng Thị Hồng Vân

Khoa Marketing – Trường Đại học Thương mại

Email: dthvantm@gmail.com

Tóm tắt

Ngành dệt may hiện nay có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường do tiêu dùng tăng quá mức dẫn đến sử dụng nhiều tài nguyên, năng lượng, đồng thời xả chất thải, khí thải và rác thải. Các thuật ngữ liên quan đến sản phẩm dệt may tái chế, tái sử dụng như reuse, resale, upcycling, downcycling, recycling ngày càng phổ biến. Với tình thế đó, các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã và đang ngày càng quan tâm đến vấn đề giảm thiểu tác động này thông qua việc tăng cường tái sử dụng và tái chế các sản phẩm dệt may. Bài viết nhằm xác định sơ bộ các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này, bên cạnh đó thảo luận các giải pháp để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong tương lai.

Từ khóa: Sản phẩm dệt may, tái chế, tái sử dụng, tiêu dùng bền vững.

Summary

The textile industry currently has serious impacts on the environment through excessive consumption leading to the use of many resources, energy, and at the same time, the discharge of waste, emissions and garbage. Terms related to recycled and reused textile products such as reuse, resale, upcycling, downcycling, recycling is increasingly popular. In that situation, countries around the world, including Viet Nam, have been increasingly concerned about the issue of minimizing this impact through increasing the reuse and recycling of textile products. The reuse and recycling of textile products in Viet Nam still has certain limitations and the goal of the article is to preliminarily identify the factors affecting this activity, besides discussing solutions to promote production and consumption in the future.

Keywords: Textile products, recycling, reuse, sustainable consumption.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Có thể thấy con người đang phải đối mặt với mâu thuẫn lớn là nhu cầu tiêu dùng thì càng tăng trong khi các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Điều này gây ra rất nhiều bất ổn như: khoảng cách giàu – nghèo ngày càng lớn; chất lượng môi trường đi xuống đồng nghĩa với chất lượng sống suy giảm; diễn biến của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp gây ảnh hưởng lớn tới đời sống người dân…

Trong những năm cuối của thế kỉ 20 và những năm đầu của thế kỉ 21, ngành may mặc thời trang phát triển mạnh mẽ trên thế giới cũng như thị trường Việt Nam. Khách hàng trẻ ngày càng có xu hướng ưa chuộng dòng sản phẩm thời trang nhanh, nhu cầu về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc sản phẩm thay đổi với tốc độ không phải theo mùa như trước đây mà có thể là theo tháng, theo tuần. Chính điều này đã làm gây tổn hại đến môi trường bởi lượng nước tiêu thụ lớn; lượng nước thải của quá trình nhuộm và xử lý vải chưa qua xử lý; lượng chất thải dệt may lớn; lượng khí thải carbon lớn. Theo thống kê của Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc [UNEP, 2019], thời trang là ngành công nghiệp tiêu thụ nước nhiều thứ 2 thế giới và chiếm từ 2 - 8% lượng khí carbon phát thải, nhiều hơn lượng phát thải từ các máy bay và tàu thủy cộng lại. Như khi sản xuất một chiếc quần jeans cần xấp xỉ 7,500 lít nước, con số đủ cho một người trưởng thành sử dụng trong 7 năm (báo cáo của the UN Alliance for Sustainable Fashion).

Trước thực trạng trên, Việt Nam và các nước trên thế giới cũng đã có sự quan tâm, đầu tư thích đáng cho vấn đề liên quan đến thay thế mô hình kinh tế tuyến tính hiện tại (khai thác tài nguyên – sản xuất – thải loại) sang mô hình kinh tế tuần hoàn dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác” (Pearce, D.W. và R.K. Turner, 1990); xanh hóa chuỗi cung ứng và khuyến khích người tiêu dùng chuyển đổi sang sử dụng sản phẩm thời trang tái chế là một vấn đề lớn cần được nghiên cứu.

Sau giai đoạn hậu COVID-19, người tiêu dùng trong ngành thời trang có xu hướng hướng tới thời trang bền vững. Điều này đã khiến những người sáng tạo thời trang như nhà thiết kế, nhà phát triển sản phẩm, người mua và người bán hàng lựa chọn các sản phẩm thời trang bền vững và thân thiện với môi trường. Từ đó, việc tái sử dụng, tái chế hàng may mặc và phụ kiện sẽ trở nên phổ biến hơn trong tương lai nhưng hiện tại trên thị trường dệt may có chưa đến 10% nguyên liệu tái chế, nên các khoản đầu tư trong toàn ngành sẽ được yêu cầu để mở rộng quy trình và công nghệ tái chế theo chu trình khép kín để giảm thiểu tác động đến môi trường (MarketsandMarkets, 2025).

Định hình được tình thế này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt các văn bản nhằm tăng cường quản lý chất thải, tái sử dụng, tái chế, trong đó, phải kể đến Chỉ thị số 33/CT-TTg về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030. Đặc biệt, với mục tiêu hoàn thiện chế định quản lý chất thải rắn theo hướng coi chất thải và chất thải nhựa là tài nguyên, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã đưa ra quy định EPR (Extended Producer Responsibility) - là cách tiếp cận chính sách môi trường theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó.

Với bối cảnh hiện nay, áp lực về khối lượng chất thải vải vụn và sản phẩm đã qua sử dụng tạo ra nhu cầu cấp bách về các giải pháp tái chế và tái sử dụng. Ở Việt Nam, mặc dù đã triển khai một số mô hình kinh tế tuần hoàn, nhưng việc hiểu sâu các động lực, rào cản và trải nghiệm thực tiễn của các bên liên quan vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu này nhằm:

- Khám phá quan điểm, kinh nghiệm và thực tiễn của các doanh nghiệp tái chế, chuyên gia môi trường và nhà quản lý chính sách.

- Xác định các yếu tố thúc đẩy và cản trở quá trình thu gom, phân loại và tái sử dụng sản phẩm dệt may.

- Đề xuất khung khuyến nghị dựa trên góc nhìn kinh tế môi trường và kinh tế tuần hoàn.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được thực hiện chủ yếu theo phương pháp phân tích thống kê và phương pháp so sánh dựa trên dữ liệu thứ cấp về thị trường sản phẩm dệt may trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, đặc biệt là về xu hướng sản xuất tiêu dùng bền vững, trong đó có các vấn đề về tái sử dụng và tái chế các sản phẩm dệt may. Trên cơ sở xác định những khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến hoạt động này tại Việt Nam, khuyến nghị các giải pháp cho Nhà nước, Hiệp hội ngành nghề và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm dệt may tại Việt Nam.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Sản phẩm dệt may là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tuy nhiên trong giới hạn nghiên cứu này, tác giả chỉ đề cập đến thị trường sản phẩm dệt may trong nước và tập trung làm rõ thực trạng tái sử dụng, tái chế hàng dệt may ở Việt Nam hiện nay.

Theo báo cáo nghiên cứu của Mordor Intelligence, thị trường thời trang toàn cầu đạt 1,33 nghìn tỷ USD năm 2023, và dự kiến lên 1,67 nghìn tỷ USD vào năm 2028, với tốc độ tăng trưởng CAGR (Compound Annual Growth Rate) là 4,63%.

Hình 1: Các loại hàng hóa, dịch vụ được mua trên sàn TMĐT

Các yếu tố ảnh hưởng đến tái chế và tái sử dụng sản phẩm dệt may ở Việt Nam

Nguồn: Sách trắng TMĐT Việt Nam 2023

Trong đó, riêng tại thị trường dệt may Việt Nam, Statista dự báo đạt 7,33 tỷ USD vào năm 2025, các chuyên gia nghiên cứu đánh giá Việt Nam là thị trường rất hấp dẫn bởi cơ cấu dân số trẻ và yêu thích xu hướng mới.

Đặc biệt, sau đại dịch Covid-19, hoạt động mua sắm thời trang trên nền tảng thương mại điện tử (TMĐT) tăng nhanh, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm CAGR trên thị trường dự kiến đến năm 2025 tăng 14,2% so với 2017, đạt giá trị 1.000 tỷ USD. Tại thị trường Việt Nam, theo sách trắng TMĐT Việt Nam 2023, lĩnh vực thời trang có lượng mua trên nền tảng TMĐT là cao nhất, chiểm 76%, mà phần lớn là xu hướng mua sắm thời trang theo mùa, thời trang nhanh, những sản phẩm tiêu dùng trong thời gian ngắn, thậm chí chỉ mặc một lần để chụp hình đăng ảnh trên các nền tảng mạng xã hội (được thể hiện tại Hình 1).

Với tốc độ tiêu dùng như vậy, ngành công nghiệp thời trang là nguyên nhân chính gây ra lượng khí thải nhà kính khổng lồ và tàn phá môi trường; bên cạnh đó là tình trạng rác thải từ sản phẩm thời trang gia tăng, gây ô nhiễm và tàn phá môi trường rất lớn. Theo WRI (Viện Tài nguyên Thế giới), ước tính có khoảng 5 nghìn tỷ lít nước được sử dụng trong quá trình nhuộm và ước tính khoảng 48-144 tỷ mét vuông vải từ rác thải nhà máy được đưa vào các bãi chôn lấp mỗi năm. Phải mất tới 10.000 lít nước để làm ra một chiếc quần jean và khoảng 2.500 lít nước để làm ra một chiếc áo sơ mi cotton. Nhìn chung, ngành công nghiệp dệt may chịu trách nhiệm cho 20% lượng nước ô nhiễm trên thế giới, lượng nước này đủ để làm dịu cơn khát của 110 triệu người trong cả năm. Về lượng khí thải carbon, ngành công nghiệp này chịu trách nhiệm cho 7-10% lượng khí thải toàn cầu hàng năm - nhiều hơn tất cả các chuyến bay quốc tế và vận tải biển cộng lại. Đến năm 2030, lượng khí thải nhà kính này sẽ tăng hơn 50%.

Đứng trước tình hình đó, các mô hình kinh doanh mới nhằm kéo dài tuổi thọ của hàng may mặc ngày càng phát triển, đặc biệt các hoạt động như cho/cho thuê, bán lại, thiết kế lại gọi chung là tái sử dụng (reuse) và tái chế (recycle)

Tái sử dụng (reuse) sản phẩm dệt may ở Việt Nam

Đối với tái sử dụng hàng dệt may, người Việt Nam khá quen với từ seconhand, hay còn gọi là quần áo đã qua sử dụng hoặc đồ si. Trong giai đoạn khó khăn trước đây, các sản phẩm quần áo đã qua sử dụng đến Việt Nam từ những kiện hàng, thùng hàng quần áo cũ do Tổ chức Hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) viện trợ. Do đó, ở Việt Nam nó còn được gọi là hàng “thùng”, hàng “si đa” hay hàng “si” và thường được mua bởi tập khách hàng có thu nhập thấp.

Nhưng hiện nay, dù mức sống của người dân ngày càng tăng cao, nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc cũng ngày càng đòi hỏi cao hơn về mẫu mã, chất liệu, thì thị trường quần áo đã qua sử dụng vẫn hết sức sôi động, chúng được bày bán từ các sạp hàng trong chợ cho đến những quầy hàng, những cửa hàng chuyên kinh doanh thậm chí là có cả những khu phố hay những chợ chuyên kinh doanh mặt hàng này ở khắp mọi tỉnh thành của Việt Nam, đặc biệt với sự phát triển của internet, các hình thức bán hàng online ra đời khiến cho người mua ngày càng dễ tiếp cận hơn với các sản phẩm này. Không chỉ ở Việt Nam, mà tại các nước trên thế giới thị trường này cũng tăng trưởng nhanh. Theo dữ liệu từ Statista, thị trường quần áo cũ trên thế giới dự kiến sẽ đạt giá trị 351 tỷ USD vào năm 2027, gần gấp đôi so với mức 177 tỷ USD vào năm 2023.

Người tiêu dùng Việt Nam tăng xu hướng mua sắm đồ secondhand vì nhiều lý do như kiểu dáng mẫu mã đa dạng, đặc biệt là sự độc đáo có một không hai, không sợ đụng hàng với người xung quanh mà giá thành rẻ hơn so với hàng mới, nhất là ý thức về việc tái sử dụng và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường.

Theo nghiên cứu của RedSeer Strategy Consultants, thị trường kinh doanh đồ secondhand tại Việt Nam được dự báo sẽ đạt giá trị trên 5 tỷ USD vào năm 2026, tăng đáng kể so với con số hiện tại là 1,1 tỷ USD. Trong danh sách mặt hàng đồ cũ, các sản phẩm điện tử, đồ gia dụng gia đình và quần áo chiếm tỷ lệ tiêu thụ lớn nhất. Có đến 83% người dân Việt Nam được hỏi trong nghiên cứu đã từng mua ít nhất một sản phẩm đã qua sử dụng và họ đều có ý định tiếp tục mua tiếp trong tương lai.

Các cửa hàng kinh doanh hoạt động dưới mô hình thanh lý ký gửi các sản phẩm thời trang – mỹ phẩm – phụ kiện đã qua sử dụng tiếp tục gia tăng. Các cửa hàng này hoạt động dưới hình thức cửa hàng kết hợp với mạng xã hội để tiếp cận khách hàng, những người đang có nhu cầu thanh lý sản phẩm đã qua sử dụng (hoặc có khi còn mới 100%) và giúp tìm chủ nhân mới cho những món đồ ấy. Các cửa hàng ký gửi có thể kể đến The Next – Dịch vụ thanh lý ký gửi, Give Away Vietnam, Coco Dressing Room, LABB High-end thanh lý cao cấp, Urban Circular Space (Hà Nội)…

Các cửa hàng theo mô hình thanh lý ký gửi sẽ ưu tiên chọn lựa các mặt hàng local brand có tên tuổi, chất lượng hoặc là sản phẩm thời trang từ các nhà thiết kế nổi tiếng trong nước sẽ được yêu thích hơn, cùng với đó là hàng của một vài thương hiệu thời trang nhanh nổi tiếng trong nước như H&M, Zara… Mô hình thanh lý ký gửi hoạt động dựa trên thu hoa hồng các sản phẩm bán được với người bán.

Ngoài ra, các nền tảng giúp khách hàng có thể dễ dàng thanh lý ký gửi sản phẩm cũng ra đời tại Việt Nam như: Passii – dịch vụ ký gửi và bán quần áo second hand được tín nhiệm bởi người nổi tiếng; SSSMarket – chợ đồ cũ đa dạng; Piktina – săn đồ chất, bán đồ nhanh.

Với khách hàng, nhất là Gen Z hiện nay có thói quen chụp ảnh check-in với những bộ cánh xinh đẹp ở những điểm du lịch, nhà hàng, đường phố, quán cafe… với một mẫu thiết kế xinh đẹp, việc thanh lý ký gửi ngày càng thuận tiện giúp họ có thể bán lại những bộ cánh cũ để tiếp tục rinh về những sản phẩm mới theo xu hướng, và nhất là có thể tiếp cận sản phẩm thời trang đã qua sử dụng (hoặc còn mới nguyên) với giá thấp bằng một nửa hoặc hơn so với giá gốc.

Tái chế (recycle) sản phẩm dệt may ở Việt Nam

Thời trang tái chế là sử dụng lại các vật liệu cũ hoặc các vật liệu khác để tạo ra một sản phẩm mới: (1) Quần áo cũ, vải vụn, giấy báo, nhựa … chính là những nguyên liệu chính của thời trang tái chế, chúng có thể tái chế lại thành các sản phẩm khác như túi xách, giày dép, quần áo, mũ, thú bông… được gọi là upcycling hoặc downcycling; (2) Bằng cách tái chế những vật liệu đã qua sử dụng chúng ta có thể giảm thiểu lượng rác thải được tạo ra tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường – còn gọi là recycling

Như vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản:

- Upcycling: là quá trình biến vật liệu cũ thành sản phẩm mới có giá trị cao hơn hoặc có công dụng khác mà không cần tái chế. Ví dụ như quần áo, có thể được cắt ghép và may lại thành một thiết kế khác mà không cần xử lý công nghiệp.

- Downcycling: là quá trình chuyển đổi các vật liệu cũ thành sản phẩm có giá trị thấp hơn hoặc có chất lượng kém hơn so với vật liệu gốc (thường áp dụng trong sản xuất vật liệu phụ trợ). Ví dụ như một chiếc thảm lau được làm từ quần áo cũ.

- Recycle: tập trung vào việc chuyển đổi vật liệu cũ thành vật liệu mới để sử dụng trong quá trình sản xuất. Ví dụ tái chế rác thải nhựa, quần áo cũ, vải vụn… thành các loại sợi tái chế để dệt thành vải như sợi cotton tái chế, sợi polyester/nylon/acrylic tái chế…

Với ba loại sản phẩm dệt may tái chế như nêu, chúng ta có thể thấy, khách hàng trên thị trường hiện nay thường hướng đến sản phẩm upcycling và sản phẩm recycling.

Ở Việt Nam người trẻ có xu hướng sáng tạo và muốn khẳng định phong cách riêng lại tìm đến các sản phẩm tái chế upcycling.

Điều mà chúng ta có thể không biết đó chính là một số chất liệu được sử dụng trong ngành thời trang thực sự chứa các hóa chất cực kỳ nguy hiểm và không thân thiện với môi trường. Những chất nguy hiểm này sẽ dẫn đến các vấn đề về môi trường cực tai hại như suy thoái đất và ô nhiễm không khí. Nghiên cứu cho thấy rằng chúng cũng có nguy cơ xâm nhập vào đường nước, nguồn cung cấp không khí trong sạch của chúng ta và còn nhiều thứ khác nữa.

Khi áp dụng upcycling thì ta sẽ thấy nhu cầu về nguyên liệu thô sẽ được giảm đi đáng kể, do đó mà ta thấy một số hóa chất nhất định được sử dụng trong quá trình sản xuất sẽ được hạn chế đi. Quá trình này sẽ giúp cho chúng ta giải quyết các vấn đề về môi trường như giảm lượng chất thải đưa vào các bãi chôn lấp, giảm ô nhiễm nước, giảm phát thải khí thải nhà kính và quan trọng nhất sẽ cứu được rừng nhiệt đới của chúng ta.

THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

Thứ nhất, với thị trường tái sử dụng, ngoài những lợi thế như hạn chế rác thải, tiêt kiệm nguyên liệu, thì chúng ta vẫn phải đối mặt với một số thách thức:

- Tạo áp lực nhất định đối với sản xuất hàng may mặc trong nước, khi phần lớn các nguồn hàng cung ứng thị trường tái sử dụng nhập khẩu từ các nước phát triển hoặc nhập lậu từ các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc…

- Khó kiểm soát chất lượng hàng hóa do phần lớn thị trường hoạt động tự do, tự phát

- Chưa có hệ thống cơ chế chính sách, ưu đãi cho thị trường này.

Thứ hai, đối với thị trường tái chế, là phần thị trường còn khá hạn chế so với thị trường tái sử dụng cũng có những khó khăn nhất định:

- Chưa có quy trình bài bản để thu gom, phân loại chất thải hàng dệt may (quần áo sau sử dụng, vải vụn trong quá trình sản xuất…).

- Nguồn cung nguyên liệu tái chế còn hạn chế.

- Chi phí đầu tư cho công nghệ tái chế vẫn ở mức cao.

- Thách thức thực sự của việc kết hợp những lựa chọn tái chế tối ưu và tính bền vững của các đặc tính hấp dẫn cốt lõi trong sản phẩm thời trang, bởi vì thiết kế những sản phẩm vừa có tính bền vững, vừa hoàn toàn tái chế được thực sự không hấp dẫn và rất ít trong số đó thành công.

- Rào cản trong chuyển đổi từ nhận thức của người tiêu dùng đến hành động tiêu dùng sản phẩm tái chế.

KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Trước những thách thức nêu trên, tác giả xin gợi ý một số giải pháp để thúc đẩy thị trường tiêu dùng sản phẩm dệt may tái chế và tái sử dụng ở Việt Nam hiện nay

Đầu tiên là các giải pháp ở tầm vĩ mô, từ các quy định, cơ chế chính sách của Nhà nước:

+ Chính phủ nên có những quy định rõ ràng, bài bản về quy trình thu gom, xử lí đồ cũ trong nước cũng như hoạt động nhập khẩu từ nước ngoài.

+ Chính phủ có thể đưa ra những chính sách khích lệ như giảm thuế cho các thương hiệu có chương trình thu, bán lại sản phẩm cũ hoặc miễn thuế cho những cá nhân có hoạt động thương mại, mua bán đồ cũ.

+ Xây dựng và phát triển nguồn cung nguyên liệu tái chế.

+ Xây dựng các chương trình truyền thông đồng bộ từ cấp độ vĩ mô đến vi mô để lấp khoảng cách từ nhận thức đến hành động của người tiêu dùng trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội cũng như tạo xu hướng tiêu dùng hàng dệt may tái chế.

Tiếp theo là các giải pháp từ phía hiệp hội doanh nghiệp may mặc Việt Nam nhằm thống kê đầy, đủ tình trạng chất thải, rác thải từ ngành may mặc, từ đó quy hoạch nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng như xuất khẩu để đáp ứng các yêu cầu hiện nay của ngành hàng.

Song song với đó, bản thân các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng may mặc tái chế và tái sử dụng cũng cần có chiến lược dài hơi trong xác đinh nguồn cung – cầu thị trường, quản lý hoạt động phân phối phù hợp với đặc trưng khách hàng giai đoạn hiện nay – đòi hỏi sự sáng tạo, độc đáo nhưng mức giá hợp lí.

Cuối cùng là từ phía người tiêu dùng, mỗi người cũng tự nhận thức được tác động tiêu dùng của mình với môi trường, từ đó có những lựa chọn kĩ lưỡng khi tìm kiếm, mua sắm, tiêu dùng sản phẩm may mặc, thậm chí cả hoạt động vứt bỏ sản phẩm sau tiêu dùng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Cuc và Vidovic (2011). Environmental Sustainability through Clothing Recycling, Operations and Supply Chain Management: An International Journal, Volume 4, Issue 2, 2011, DOI: http://doi.org/10.31387/oscm0100064.

Deborah Drew (2017). The Apparel Industry’s Environmental Impact in 6 Graphics, WRI.

Đặng Thị Hồng Vân (2022). Các doanh nghiệp may mặc Việt Nam với tiêu dùng bền vững, Tạp chí Công Thương, Số 9, T5/2022.

Pearce, D.W. and R.K. Turner (1990). Economics of Natural Resources and the Environment, Hemel Hempstead: Harvester Wheatsheaf.

Sandin và Peters (2018). Environmental impact of textile reuse and recycling – A review, Journal of Cleaner Production, Volume 184, 20 May 2018, Pages 353-36.

MarketsandMarkets (2025). Textile Recycling Market by Material (Cotton, Polyester & Polyester Fibers, Wool, Nylon & Nylon Fibers), Textile Waste, Process, Distribution, End-use Industry (Apparel, Home Furnishing, Industrial & Institutional), and Region - Global Forecast to 2027, report.

UNEP (2019). UN Alliance For Sustainable Fashion addresses damage of fast fashion. https://www.unep.org/news-and-stories/pressrelease/unalliance-sustainable-fashion-addresses-damage-fast-fashion

Ngày nhận bài: 10/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/6/2025; Ngày duyệt đăng: 19/6/2025