Những thách thức trong chuyển đổi số hệ thống bảo hiểm xã hội tại Việt Nam

Nghiên cứu này nhằm phân tích các thách thức chính trong chuyển đổi số hệ thống bảo hiểm xã hội tại Việt Nam. Từ đó, đề xuất các giải pháp khả thi, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số hiệu quả và bền vững, đáp ứng yêu cầu của thời đại và nhu cầu của xã hội.

ThS. Lê Thị Thanh

ThS. Tăng Thị Phúc

Trường Cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng

Email: thanhlebang@gmail.com

Tóm tắt

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, minh bạch hóa quy trình và tăng cường tiếp cận dịch vụ bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, quá trình này đối mặt với những rào cản lớn như: hạ tầng công nghệ còn hạn chế, dữ liệu không đồng bộ và mức độ sẵn sàng của nguồn nhân lực chưa cao. Chính vì vậy, nghiên cứu này sẽ làm rõ những thách thức trong quá trình chuyển đổi số hệ thống bảo hiểm xã hội tại Việt Nam. Qua đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư vào hạ tầng công nghệ, nâng cao kỹ năng số cho nhân viên và xây dựng lộ trình chiến lược chuyển đổi số dài hạn để đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của hệ thống bảo hiểm xã hội trong thời gian tới.

Từ khóa: Chuyển đổi số, bảo hiểm xã hội, BHXH, ứng dụng AI, VssID.

Summary

In the context of the Fourth Industrial Revolution, Vietnam has implemented various digital transformation policies to improve administrative efficiency, enhance transparency, and expand access to social insurance services. However, this process faces significant barriers, including limited technological infrastructure, fragmented data systems, and low digital readiness of the workforce. This study aims to clarify the challenges associated with the digital transformation of Vietnam's social insurance system. Based on the analysis, the paper proposes solutions such as increased investment in technological infrastructure, digital skill enhancement for personnel, and the development of a long-term strategic roadmap to ensure the sustainability and effectiveness of the social insurance system moving forward.

Keywords: Digital transformation, social insurance, Vietnam Social Security (VSS), AI applications, VssID

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thời đại ngày nay, công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số đã trở thành một xu hướng tất yếu trên toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý công. Tại Việt Nam, hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi của người lao động và tổ chức. Tuy nhiên, trước áp lực gia tăng về quy mô quản lý, sự đa dạng trong đối tượng tham gia và yêu cầu cải thiện chất lượng dịch vụ, chuyển đổi số không chỉ là một lựa chọn mà đã trở thành một nhu cầu cấp thiết.

Quá trình chuyển đổi số trong hệ thống BHXH tại Việt Nam được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều lợi ích quan trọng như: tự động hóa các quy trình nghiệp vụ, nâng cao tính minh bạch, giảm thiểu thời gian và chi phí cho người tham gia, đồng thời tối ưu hóa công tác quản lý nhà nước. Dù vậy, thực tiễn triển khai lại gặp nhiều thách thức lớn như sự thiếu đồng bộ trong hạ tầng CNTT, vấn đề bảo mật dữ liệu cá nhân và sự thiếu hụt nguồn nhân lực có năng lực về chuyển đổi số.

Xuất phát từ thực trạng này, việc nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích các thách thức chính trong chuyển đổi số hệ thống BHXH tại Việt Nam là cần thiết và cấp bách, từ đó, đề xuất các giải pháp khả thi, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số hiệu quả và bền vững, đáp ứng yêu cầu của thời đại và nhu cầu của xã hội.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Thực tế cho thấy, nhiều nghiên cứu trong nước và quốc tế đã chỉ ra tầm quan trọng của chuyển đổi số trong hệ thống BHXH. Các nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh như ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả quản lý và cung cấp dịch vụ, đồng thời, phân tích các thách thức trong việc triển khai.

Tại nhiều nước trên thế giới đã có những áp dụng điển hình về lĩnh vực này, cụ thể: Nghiên cứu của OECD (2021) nhấn mạnh vai trò của công nghệ số trong việc cải thiện khả năng tiếp cận và minh bạch của hệ thống an sinh xã hội ở các quốc gia phát triển. Các nước như Estonia, Singapore đã ứng dụng công nghệ blockchain và trí tuệ nhân tạo (AI) để tự động hóa quản lý dữ liệu và cải thiện dịch vụ khách hàng. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng chỉ ra rằng, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo hiểm không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình mà còn đáp ứng được yêu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động và nhân khẩu học. Bên cạnh đó, tại các nước như Thụy Điển, Đan Mạch, hệ thống BHXH đã chuyển đổi hoàn toàn sang nền tảng số với dữ liệu tập trung và các thuật toán AI hỗ trợ ra quyết định tự động. Dịch vụ số hóa giúp tiết kiệm thời gian và giảm thiểu sai sót trong quản lý. Tại Ấn Độ, việc áp dụng các nền tảng công nghệ di động đã giúp mở rộng dịch vụ BHXH tới các cộng đồng nông thôn, nơi có tỷ lệ tham gia thấp. Tuy nhiên, hạ tầng mạng và kỹ năng số của nhân viên vẫn là thách thức lớn.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và BHXH Việt Nam đã phân tích tác động của chuyển đổi số đối với hệ thống BHXH. Theo Trần Minh Thái (2021), Việt Nam đang đối mặt với những thách thức về năng lực công nghệ, đặc biệt là trong việc đồng bộ dữ liệu giữa các cơ quan liên quan. Một số bài nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, trong khi CNTT đang được ứng dụng vào quản lý BHXH, các vấn đề như bảo mật dữ liệu cá nhân và mức độ sẵn sàng của nguồn nhân lực là rào cản lớn.

THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI SỐ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM

Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc ứng dụng CNTT và chuyển đổi số vào quản lý hệ thống BHXH. Tuy nhiên, quá trình này vẫn đối mặt với không ít thách thức. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, BHXH ở Việt Nam đã có nhiều cải tiến nhờ áp dụng CNTT.

Về mặt tích cực, thời gian qua, cơ sở dữ liệu tập trung toàn quốc đã được xây dựng, kết nối với 63 tỉnh thành; ứng dụng VssID (Bảo hiểm xã hội số) giúp người dân tra cứu thông tin, nộp bảo hiểm trực tuyến và nhận thông báo từ cơ quan BHXH. Qua ứng dụng này, người dân dễ dàng quản lý, kiểm soát thông tin về quá trình tham gia, thụ hưởng các chính sách bảo hiểm một cách dễ dàng, nhanh chóng tiện lợi, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí. Đặc biệt, từ ngày 1/6/2021, việc triển khai sử dụng ứng dụng VssID để khám chữa bệnh BHYT trên toàn quốc đã nhận được nhiều đánh giá rất tích cực. Đối với việc hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, việc chuyển đổi số đã cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 cho các thủ tục như: kê khai, đóng BHXH, giảm thời gian xử lý từ nhiều ngày xuống còn vài giờ. Đặc biệt, trong giai đoạn đại dịch COVID-19, việc ứng dụng công nghệ giúp duy trì hoạt động quản lý và chi trả quyền lợi cho người lao động, đồng thời đảm bảo giãn cách xã hội. Về thanh toán chi trả không dùng tiền mặt, tại khu vực đô thị, tính đến hết năm 2024, khoảng 80% người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp thất nghiệp nhận qua tài khoản cá nhân, vượt 20% so với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, thực tế ứng dụng CNTT và chuyển đổi số vào quản lý hệ thống BHXH vẫn còn những hạn chế nhất định. Dữ liệu nghiên cứu thực tế tại Việt Nam cho thấy, tỷ lệ người tham gia BHXH năm 2022 đạt khoảng 38,8% lực lượng lao động, trong đó, số người tham gia BHXH tự nguyện tăng nhưng vẫn còn thấp. Mặc dù ứng dụng VssID đã có hơn 40 triệu lượt tải xuống, nhưng vẫn có tỷ lệ lớn người dân chưa sử dụng hoặc không biết cách sử dụng dịch vụ này. Thời gian xử lý hồ sơ BHXH trung bình giảm từ 7 ngày xuống còn 2 ngày tại một số tỉnh thành triển khai hiệu quả chuyển đổi số. Bên cạnh đó, hệ thống BHXH vẫn còn tình trạng lỗi kỹ thuật do gặp sự cố hoặc quá tải làm cho nhiều người không thể tiếp cận với tổng đài chăm sóc khách hàng của BHXH cũng như ứng dụng VssID lúc cần thiết dẫn đến tâm lý thiếu tin tưởng vào các kênh hỗ trợ công nghệ hiện đại. Ngoài ra, ứng dụng VssID cần người sử dụng có hiểu biết, kiến thức về CNTT trên thiết bị di động. Trong khi đó, rất nhiều người dân tuy có điện thoại thông minh, nhưng không đủ thành thạo để tự cài đặt VssID và sử dụng ứng dụng dẫn đến tình trạng e ngại, không quan tâm tiếp cận ứng dụng.

MỘT SỐ THÁCH THỨC VÀ NGUYÊN NHÂN

Về thách thức

Thứ nhất, tạ tầng công nghệ chưa đồng bộ. Hạ tầng kỹ thuật số bao gồm các thành phần công nghệ và hệ thống kỹ thuật tạo nền tảng cho hoạt động CNTT của một tổ chức. Hạ tầng số bao gồm các yếu tố như: Các thiết bị, máy tính điện tử; Các loại mạng kết nối như mạng không dây, cáp quang; Các cơ sở dữ liệu, công nghệ, quy trình, cách tổ chức, vận hành, quản lý và chia sẻ dữ liệu; Công cụ khai thác các nguồn tài nguyên số; Hệ thống pháp lý và thực thi pháp luật trong thời chuyển đổi số... Tuy nhiên, hiện nay nhiều khu vực, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi, thiếu kết nối internet ổn định, ảnh hưởng đến khả năng triển khai các nền tảng số. Hệ thống phần cứng, phần mềm tại các cơ quan BHXH ở địa phương chưa được nâng cấp đồng bộ, gây khó khăn trong việc liên thông dữ liệu.

Thứ hai, chất lượng nhân lực hạn chế. Nguồn nhân lực có mối quan hệ mật thiết tới quá trình số hóa lực lượng lao động, số hóa nơi làm việc và số hóa nguồn nhân lực, mà bất kỳ sự gián đoạn nào trong quá trình số hóa đều trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Lực lượng lao động với kỹ năng, kiến thức có khả năng làm chủ và sử dụng các công nghệ số. Tuy nhiên, hiện nay, một số cán bộ BHXH thiếu kỹ năng sử dụng CNTT, khiến việc vận hành các hệ thống số gặp khó khăn. Thiếu nhân sự chuyên môn cao về công nghệ để quản lý, bảo trì và phát triển hệ thống.

Thứ ba, nhận thức của người dân. Thực tế hiện nay cho thấy, một bộ phận người dân, đặc biệt là người lớn tuổi và lao động phi chính thức chưa quen với việc sử dụng các dịch vụ số như ứng dụng VssID. Giao diện và trải nghiệm người dùng của một số nền tảng còn gây khó khăn cho người ít tiếp xúc với công nghệ. Ngoài ra, việc số hóa dữ liệu cá nhân trong BHXH đòi hỏi hệ thống bảo mật cao, tránh nguy cơ lộ thông tin cá nhân. Tuy nhiên, các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi, đòi hỏi hệ thống phải liên tục được nâng cấp và bảo vệ. Niềm tin của người dân vào hệ thống bảo mật dữ liệu còn hạn chế, dẫn đến tâm lý ngần ngại, lo lắng về tính chính xác và an toàn của giao dịch số vẫn còn tồn tại khi cung cấp thông tin cá nhân và sử dụng dịch vụ trực tuyến.

Thứ tư, bảo mật và an ninh mạng. Chuyển đổi số trong lĩnh vực BHXH đòi hỏi một hệ thống CNTT hiện đại, tốc độ cao để xử lý được khối lượng dữ liệu khổng lồ. Tuy nhiên, điều này cũng đi kèm với những rủi ro về bảo mật và an ninh mạng. Hệ thống quản lý BHXH phải xử lý khối lượng lớn dữ liệu nhạy cảm, nhưng cơ chế bảo mật hiện tại chưa đủ mạnh để đối phó với các nguy cơ tấn công mạng. Các vụ việc rò rỉ dữ liệu cá nhân làm giảm lòng tin của người dân vào hệ thống.

Thứ năm, khung pháp lý chưa hoàn thiện. Hiện nay, đã có nhiều chính sách và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chuyển đổi số được ban hành như: Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Luật An ninh mạng 2018; Luật Giao dịch điện tử sửa đổi 2023; Nghị định số13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân, quy định rõ về quyền và nghĩa vụ liên quan đến xử lý dữ liệu cá nhân; Nghị quyết số 28-NQ/TW (2018) về cải cách chính sách BHXH; Nghị định số 43/2020/NĐ-CP về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trong đó có BHXH điện tử; Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử cho phép thực hiện các dịch vụ bảo hiểm qua cổng dịch vụ công quốc gia… Tuy nhiên, còn chưa có luật hay nghị định riêng về BHXH số các quy định pháp lý về chuyển đổi số trong BHXH còn dẫn đến khó khăn trong triển khai một số dịch vụ trực tuyến. Vẫn còn tình trạng thiếu đồng bộ dữ liệu giữa BHXH, y tế và các bộ, ngành liên quan. Bên cạnh đó, ứng dụng chuyển đổi số ở các địa phương chưa đồng bộ và chưa kịp thời thích nghi với tốc độ phát triển công nghệ; Cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả chuyển đổi số chưa được triển khai toàn diện.

Về nguyên nhân

Một là, nguồn lực tài chính hạn chế. Chuyển đổi số là một lĩnh vực cần được đầu tư lâu dài và toàn diện. Đầu tư vào hạ tầng công nghệ đòi hỏi chi phí lớn, trong khi nguồn lực ngân sách nhà nước còn hạn chế. Sự thiếu hụt kinh phí dẫn đến việc đầu tư dàn trải không đồng bộ khiến việc nâng cấp các hệ thống công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng và đảm bảo tính đồng bộ giữa các địa phương chưa được triển khai hiệu quả. Chi phí bảo trì, vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH, đòi hỏi chi phí lớn để duy trì, bảo trì và nâng cấp thường xuyên. Điều này tạo thêm áp lực tài chính trong bối cảnh ngân sách còn eo hẹp. Sự thiếu hụt kinh phí cũng là hạn chế cho hoạt động đào tạo và nâng cao kỹ năng công nghệ cho cán bộ ngành BHXH ở các địa phương.

Hai là, chưa có lộ trình rõ ràng. Chuyển đổi số trong lĩnh vực BHXH là một quá trình dài hạn, yêu cầu triển khai theo từng giai đoạn cụ thể nhằm đảm bảo tính hiệu quả và khả thi. Lộ trình chuyển đổi số của BHXH Việt Nam có thể được xây dựng dựa trên chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, với trọng tâm là hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và tối ưu hóa trải nghiệm của người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua kế hoạch chuyển đổi số ở một số địa phương chưa cụ thể và thiếu tính khả thi.

Ba là, hợp tác công - tư chưa hiệu quả. Trong bối cảnh tài chính nhà nước cần phân bổ cho nhiều lĩnh vực ưu tiên khác như: y tế, giáo dục và quốc phòng. Do đó, nguồn vốn dành cho chuyển đổi số trong BHXH có nguy cơ bị thu hẹp. Chính vì vậy, việc huy động sự tham gia của các doanh nghiệp công nghệ vào quá trình chuyển đổi số cần được khai thác mạnh mẽ hơn. Quy định pháp luật về hợp tác công - tư trong chuyển đổi số còn chưa đồng bộ và cụ thể, gây khó khăn trong việc triển khai các dự án liên quan. Một số doanh nghiệp công nghệ trong nước chưa đủ năng lực để triển khai các giải pháp phức tạp hoặc không đáp ứng được yêu cầu cao về bảo mật, ổn định và khả năng mở rộng.Việc chia sẻ dữ liệu giữa khu vực công và tư nhân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu cao về bảo mật thông tin cá nhân và sự lo ngại về rò rỉ dữ liệu.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Để tăng cường đầu tư vào hạ tầng công nghệ, nâng cao kỹ năng số cho nhân viên và xây dựng lộ trình chiến lược chuyển đổi số dài hạn đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của hệ thống BHXH, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Xây dựng hạ tầng kỹ thuật

Đầu tư hạ tầng CNTT: Đây được xem là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình số hoá bởi đó là bệ phóng vững chắc cho sự thành công của chuyển đổi số. Do đó, thời gian tới, hệ thống BHXH cần nâng cấp hệ thống mạng, máy chủ và các thiết bị công nghệ tại các cơ quan BHXH, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa. Triển khai các trung tâm dữ liệu quốc gia mạnh mẽ, đảm bảo khả năng lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn.

Phát triển nền tảng số dùng chung: Cần tích hợp các nền tảng như ứng dụng VssID, hệ thống kê khai trực tuyến và cơ sở dữ liệu liên thông để đồng bộ hóa thông tin; Sử dụng mã định danh cá nhân (CCCD) làm nền tảng để kết nối và xác thực thông tin. Bên cạnh đó, áp dụng công nghệ Blockchain và các nền tảng công nghệ hiện đại như Al, chatbot để đảm bảo tính minh bạch của dữ liệu; Ứng dụng phân tích dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ ra quyết định và dự báo xu hướng.

Nâng cao chất lượng nhân lực

Đào tạo kỹ năng số cho cán bộ BHXH: Cần tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về CNTT và quản lý dữ liệu cho đội ngũ cán bộ BHXH. Sử dụng mô hình đào tạo liên tục, giúp nhân viên cập nhật kiến thức công nghệ mới theo xu hướng thị trường. Đồng thời, khuyến khích cán bộ trẻ có năng lực công nghệ tham gia vào quá trình vận hành và cải tiến hệ thống; Bồi dưỡng tư duy số, kỹ năng ra quyết định dựa trên phân tích dữ liệu cho lãnh đạo để có khả năng hoạch định chiến lược, định hướng chuyển đổi số.

Thu hút nhân tài công nghệ: Xây dựng chính sách thu hút nhân lực công nghệ cao tham gia phát triển và quản lý hệ thống BHXH.

Nâng cao nhận thức cộng đồng

Tuyên truyền và hướng dẫn sử dụng: Tăng cường tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông về lợi ích của chuyển đổi số trong BHXH. Hướng dẫn người dân, đặc biệt là lao động phi chính thức, cách sử dụng các nền tảng số như VssID.

Cải thiện niềm tin vào bảo mật: Thực hiện các chiến dịch truyền thông về bảo vệ dữ liệu cá nhân, đồng thời, cam kết nâng cao an ninh mạng.

Bảo mật và an ninh mạng

Triển khai công nghệ bảo mật hiện đại: Áp dụng công nghệ blockchain và mã hóa dữ liệu để bảo vệ thông tin cá nhân trong hệ thống BHXH. Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp an ninh mạng để nâng cấp hệ thống bảo mật.

Xây dựng chính sách pháp lý về bảo mật: Hoàn thiện khung pháp lý về bảo mật thông tin trong lĩnh vực BHXH, đồng thời, xử lý nghiêm các vi phạm.

Hoàn thiện khung pháp lý và chiến lược

Xây dựng lộ trình chuyển đổi số toàn diện: Ban hành một kế hoạch chuyển đổi số cụ thể cho hệ thống BHXH, với các mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Hoàn thiện khung pháp lý: Rà soát và sửa đổi các quy định liên quan để đảm bảo phù hợp với tốc độ phát triển công nghệ. Quy định rõ cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả và trách nhiệm của các bên liên quan.

Tăng cường hợp tác công - tư

Huy động sự tham gia của doanh nghiệp: Hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để phát triển và vận hành hệ thống BHXH. Xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích nhằm thúc đẩy sự tham gia tích cực từ khu vực tư nhân.

KẾT LUẬN

Chuyển đổi số trong hệ thống BHXH tại Việt Nam là một xu hướng tất yếu, mang lại nhiều lợi ích như tăng cường hiệu quả quản lý, minh bạch hóa quy trình và cải thiện trải nghiệm của người dân. Nghiên cứu đã phân tích thực trạng triển khai chuyển đổi số, chỉ ra những tiến bộ đáng ghi nhận như ứng dụng CNTT vào dịch vụ trực tuyến và quản lý dữ liệu tập trung. Tuy nhiên, các thách thức lớn vẫn tồn tại, bao gồm hạ tầng công nghệ không đồng bộ, kỹ năng số hạn chế của nhân sự và rủi ro bảo mật dữ liệu. Để vượt qua các rào cản này, cần có các giải pháp toàn diện bao gồm: đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực kỹ thuật và kỹ năng số của nhân sự, cải thiện khung pháp lý và tăng cường bảo mật thông tin. Việc học hỏi từ các mô hình tiêu biểu như Estonia hay Singapore sẽ giúp định hướng xây dựng một hệ thống BHXH số hóa toàn diện, đảm bảo tính hiệu quả, bền vững và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2022,2023). Báo cáo thường niên về chuyển đổi số trong hệ thống bảo hiểm xã hội.

2. Estonia Government Portal (2021). e-Estonia: Digital Solutions in Social Welfare.

3. ILO (2020). Extending Social Protection through Digital Innovation.

4. OECD (2021). Digital Transformation in Social Protection: Enhancing Accessibility and Efficiency.

5. Trần Minh Thái (2021). Ứng dụng CNTT trong bảo hiểm xã hội Việt Nam: Thực trạng và giải pháp.

6. Singapore Smart Nation Initiative (2021). Artificial Intelligence in Public Services.

Ngày nhận bài: 05/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 14/5/2025; Ngày duyệt đăng: 28/5/2025