Ths. Dương Thanh Xuân
Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Tây Đô
Email: dtxuan@tdu.edu.com
PGS.TS. Đào Ngọc Cảnh
Khoa Du lịch và Quản trị NH-KS, Trường Đại học Nam Cần Thơ
TS. Phạm Đỗ Văn Trung
Khoa Địa lý, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích vai trò của du lịch đường sông trong chuyển đổi sinh kế của cộng đồng ven sông tại TP. Cần Thơ(*). Khảo sát tại các địa bàn Cái Răng, Cồn Sơn, Phong Điền và Tân Lộc cho thấy, du lịch mang lại nguồn thu nhập bổ sung đáng kể, góp phần định hình mô hình sinh kế kép. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi còn gặp nhiều rào cản như kỹ năng nghề hạn chế, liên kết vùng yếu và hạ tầng chưa đồng bộ. Từ đó, nghiên cứu đề xuất 4 nhóm giải pháp, gồm: (1) Nâng cao năng lực nghề; (2) Tổ chức lãnh thổ du lịch theo mô hình cụm - tuyến; (3) Đầu tư hạ tầng; (4) Tăng cường kết nối vùng, nhằm phát huy hiệu quả du lịch đường sông gắn với đặc trưng sinh thái - văn hóa TP. Cần Thơ.
Từ khóa: Cần Thơ, chuyển đổi sinh kế, cộng đồng ven sông, du lịch đường sông, phát triển bền vững
Summary
This study analyzes the role of river tourism in the livelihood transformation of riverside communities in Can Tho city. Surveys conducted in Cai Rang, Con Son, Phong Dien, and Tan Loc indicate that tourism contributes significantly to supplementary income, helping shape a dual livelihood model. However, the transition faces various obstacles such as limited vocational skills, weak regional linkages, and inadequate infrastructure. From this findings, the study proposes four solution groups: (1) Enhancing vocational skills; (2) Organizing tourism space based on cluster–route models; (3) Investing in infrastructure; and (4) Strengthening regional connectivity, so as to to leverage the potential of river tourism in harmony with Can Tho’s ecological and cultural identity.
Keywords: Can Tho, livelihood transformation, riverside communities, river tourism, sustainable development
GIỚI THIỆU
Tại các đô thị sông nước như TP. Cần Thơ, quá trình chuyển đổi sinh kế đang chịu ảnh hưởng từ đô thị hóa và biến đổi khí hậu. Du lịch đường sông, với lợi thế cảnh quan và văn hóa, được xem là hướng phát triển thích ứng. Tuy nhiên, tác động của du lịch đến sinh kế cộng đồng ven sông vẫn chưa được phân tích sâu từ góc nhìn người dân.
Nghiên cứu khảo sát 47 hộ dân tại 4 địa bàn tiêu biểu của TP. Cần Thơ để đánh giá cơ hội và thách thức trong chuyển đổi sinh kế của người dân. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng tổ chức lãnh thổ du lịch phù hợp với đặc điểm vùng cồn - rạch và xu thế liên kết vùng.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý luận
Du lịch đường sông là loại hình du lịch dựa vào tài nguyên sông ngòi, cảnh quan thiên nhiên và sinh kế bản địa, thường phát triển tại các vùng ven sông có hệ sinh thái và văn hóa đặc thù (Hall và Härkönen, 2006). Trong bối cảnh đô thị hóa và áp lực biến đổi khí hậu, loại hình này được xem là công cụ hỗ trợ chuyển đổi sinh kế của người dân theo hướng bền vững (Mitchell và Ashley, 2010).
Nghiên cứu vận dụng 2 khung lý thuyết: (1) Khung sinh kế bền vững (Sustainable Livelihoods Framework - SLF) giúp phân tích tác động của du lịch đến các nguồn lực sinh kế và khả năng thích ứng của cộng đồng (DFID, 1999); (2) Khung du lịch dựa vào cộng đồng (Community - Based Tourism - CBT) nhấn mạnh vai trò chủ động của người dân trong tham gia và hưởng lợi từ du lịch (Goodwin và Santilli, 2009). Việc kết hợp SLF và CBT cho phép tiếp cận tổng thể cả về kinh tế, xã hội lẫn tổ chức không gian sinh kế.
Các nghiên cứu gần đây cũng mở rộng SLF theo hướng tích hợp khả năng phục hồi sinh kế trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đô thị hóa ở vùng sông nước. Madsen và Nielsen (2023) đề xuất điều chỉnh khung SLF để phân tích khả năng thích ứng nghề nghiệp của cộng đồng ven sông trước các cú sốc môi trường và biến động ngành nghề. Trong khi đó, Smith và cộng sự (2024) nhấn mạnh vai trò của quy mô không gian trong mô hình CBT, cho rằng yếu tố phân bố điểm đến và liên kết vùng giữ vai trò then chốt tại các khu vực cồn - rạch.
Có thể thấy, cả 2 hướng tiếp cận này đều góp phần làm sâu sắc hơn nền tảng lý luận về việc tổ chức không gian sinh kế trong nghiên cứu du lịch vùng ven sông tại TP. Cần Thơ.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp. Dữ liệu định lượng thu thập từ 47 hộ dân tại Cái Răng, Cồn Sơn, Phong Điền và Tân Lộc thông qua bảng hỏi xây dựng trên khung SLF - CBT. Các chỉ số khảo sát gồm: thu nhập, kỹ năng nghề, mức độ tham gia, liên kết vùng, đào tạo và cảm nhận sinh kế. Dữ liệu được xử lý bằng phương pháp SPSS với các bước thống kê mô tả, kiểm định độ tin cậy và phân tích nhân tố khám phá (EFA).
Dữ liệu định tính thu thập từ phỏng vấn bán cấu trúc hộ dân và cán bộ địa phương. Nội dung phỏng vấn xoay quanh nhận thức, rào cản và kỳ vọng khi tham gia du lịch. Dữ liệu được mã hóa chủ đề (Silverman, 2020) và phân tích theo khung SWOT nhằm nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế trong bối cảnh phát triển du lịch đường sông.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng sinh kế và mức độ tham gia du lịch của cộng đồng
Nghiên cứu khảo sát tại 4 địa bàn ven sông cho thấy, nhiều hộ dân đã chuyển hướng sang hoạt động du lịch như: chèo thuyền, ẩm thực, lưu trú tại nhà. Trung bình, thu nhập từ du lịch chiếm khoảng 25,2%/tổng thu nhập của hộ. Tuy nhiên, chỉ có 2 hộ từng tham gia đào tạo bài bản, trong khi phần lớn tự học qua kinh nghiệm. Đáng chú ý, gần 70% hộ vẫn duy trì kết hợp nông nghiệp và dịch vụ du lịch, phản ánh mô hình sinh kế kép phổ biến.
Chỉ số cảm nhận về ổn định sinh kế đạt 3,7/5 điểm, cho thấy xu hướng tích cực ban đầu. Tuy vậy, mức độ liên kết với các điểm đến khác hoặc doanh nghiệp du lịch rất thấp (1,6/5), cho thấy sự phân tán trong hoạt động kinh tế du lịch tại cộng đồng (Hình 1).
Hình 1: Chỉ số sinh kế và mức độ tham gia du lịch của cộng đồng ven sông tại TP. Cần Thơ
Nguồn: Nhóm tác giả khảo sát thực tế, tháng 3/2025
Đánh giá các cơ hội từ phát triển du lịch đường sông
Kết quả nghiên cứu ghi nhận các tín hiệu khả quan. Tất cả các hộ đều có ít nhất một kỹ năng phục vụ du khách trong số các kỹ năng như: nấu ăn, dẫn tour, chèo thuyền. Mặc dù còn thiếu đào tạo chính quy, năng lực thực hành tại chỗ cho thấy tiềm năng phát triển nếu được hỗ trợ nâng cao kỹ năng chuyên môn.
Mức cảm nhận tích cực về sinh kế từ du lịch đạt 3,69/5. Một số hộ còn chủ động đầu tư cải tạo nhà cửa, chuẩn bị dịch vụ đơn giản đón khách. Ngoài ra, nhiều hộ có mong muốn được vay vốn, học nghề hoặc kết nối với các đơn vị lữ hành (Hình 2).
Hình 2: Chỉ số phản ánh kỹ năng và đóng góp của du lịch vào sinh kế
![]() |
Nguồn: Nhóm tác giả khảo sát thực tế, tháng 3/2025
Có thể nói, du lịch không chỉ mang lại thu nhập mà còn tạo điều kiện để cộng đồng duy trì nghề truyền thống và từng bước chuyển đổi sinh kế theo hướng bền vững.
Bên cạnh lợi ích kinh tế, quá trình tham gia du lịch còn làm nảy sinh những chuyển đổi tinh tế nhưng có ý nghĩa lâu dài trong đời sống cộng đồng. Một số hộ chia sẻ rằng họ cảm thấy tự hào hơn khi được giới thiệu văn hóa địa phương cho du khách, đặc biệt là trong việc trình bày món ăn truyền thống, kể chuyện dân gian, hay hướng dẫn tham quan vườn cây. Những trải nghiệm này không chỉ nâng cao hình ảnh của người dân trong mắt khách du lịch, mà còn góp phần định hình lại vai trò của các nhóm như phụ nữ, người cao tuổi - những người trước đây ít được xem là chủ thể của sinh kế.
Những thách thức trong chuyển đổi sinh kế
Quá trình chuyển đổi sinh kế của cộng đồng ven sông gặp nhiều trở ngại như kỹ năng nghề của người dân chưa đồng đều (chỉ số đào tạo đạt 2,47/5), phần lớn chưa được hướng dẫn bài bản. Trong khi hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu, đặc biệt là tại các điểm như Tân Lộc, Trường Long, nơi thiếu bến tàu, nhà vệ sinh, bảng chỉ dẫn.
Việc tiếp cận chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng còn hạn chế (2,91/5). Một số hộ phản ánh gặp khó khăn khi tiếp cận tín dụng ưu đãi hoặc tham gia các lớp tập huấn. Ngoài ra, lo ngại rủi ro môi trường như sạt lở, nước lên bất thường, xâm nhập mặn hay biến động dòng chảy cũng khiến người dân e ngại đầu tư dài hạn cho hoạt động du lịch. Những yếu tố bất định này cũng từng được Smith và cộng sự (2024) ghi nhận như một rào cản lớn đối với sự ổn định sinh kế và phát triển du lịch bền vững ở các vùng đồng bằng ven sông (Hình 3).
Hình 3: Đánh giá của cộng đồng ven sông về các yếu tố hỗ trợ phát triển du lịch
Nguồn: Nhóm tác giả khảo sát thực tế, tháng 3/2025
Phân tích SWOT về du lịch và sinh kế ven sông
Tổng hợp từ dữ liệu định lượng và phỏng vấn định tính, nhóm nghiên cứu xây dựng ma trận SWOT thể hiện rõ 4 nhóm yếu tố sau:
Bảng: Ma trận SWOT về du lịch và sinh kế ven sông tại Cần Thơ
Yếu tố | Nội dung chính | Chỉ số khảo sát |
Điểm mạnh (Strengths) | Tỷ lệ thu nhập từ du lịch cao | Trung bình 50,6% tổng thu |
Cảm nhận sinh kế ổn định hơn | 3,37/5 | |
Có kỹ năng tổ chức tour, nấu ăn, thủ công | Có nhưng học qua thực tế | |
Điểm yếu (Weaknesses) | Chưa được đào tạo bài bản | 46,8% chưa từng được đào tạo |
Khả năng liên kết vùng thấp | 3,3/5 | |
Cơ hội (Opportunities) | Hỗ trợ từ chính quyền ở mức khá | 3,38/5 |
Nhu cầu kết nối doanh nghiệp | 32% | |
Nhu cầu vốn vay | 29% | |
Nhu cầu đào tạo nghề | 27% | |
Nguy cơ (Threats) | Thiếu khách ổn định | 31,9% |
Thiếu bến tàu, hạ tầng đón tiếp | 25,5% | |
Khó tiếp cận vốn đầu tư | 27,6% | |
Lo ngại rủi ro môi trường (sạt lở, ngập úng) | Không định lượng, ghi nhận qua phỏng vấn |
Nguồn: Khảo sát thực tế, tháng 3/2025
Điểm mạnh và cơ hội cho thấy tiềm năng phát triển du lịch đường sông gắn với sinh kế cộng đồng, nhưng các điểm yếu và nguy cơ đặt ra yêu cầu cấp thiết về đào tạo, liên kết vùng và nâng cấp hạ tầng (Bảng).
THẢO LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, du lịch đường sông đang từng bước trở thành một kênh sinh kế quan trọng đối với cộng đồng ven sông tại TP. Cần Thơ. Việc tham gia các hoạt động như: chèo thuyền, nấu ăn, làm du lịch tại nhà không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn mở rộng cơ hội việc làm ngay tại địa phương, đặc biệt cho phụ nữ và người cao tuổi. Hình thức sinh kế kép - kết hợp giữa nông nghiệp và dịch vụ du lịch - đã dần hình thành, phù hợp với đặc điểm sinh thái và văn hóa bản địa (Mitchell và Ashley, 2010; Smith và cộng sự, 2024).
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi vẫn đối mặt với nhiều rào cản như: Kỹ năng nghề còn hạn chế, thiếu đào tạo bài bản và việc kết nối với doanh nghiệp du lịch còn yếu khiến nhiều hộ dân chỉ tham gia ở mức tự phát. Đồng thời, các yếu tố như: khó tiếp cận vốn, lo ngại về rủi ro môi trường hay thiếu hạ tầng cơ bản cũng làm giảm động lực đầu tư lâu dài cho sinh kế từ du lịch - tương tự những gì được ghi nhận tại các vùng sông nước ở Đông Nam Á (Madsen và Nielsen, 2023).
Bên cạnh lợi ích vật chất, du lịch còn mang lại tác động xã hội tích cực. Nhiều hộ dân thể hiện sự tự tin hơn khi giới thiệu món ăn truyền thống, kể chuyện dân gian hoặc hướng dẫn du khách. Đặc biệt, phụ nữ, người cao tuổi và thanh niên từng bước trở thành chủ thể trong chuỗi giá trị du lịch, qua đó mở rộng vai trò xã hội và khơi lại niềm tự hào cộng đồng (Dao và Dredge, 2020).
Nhìn chung, du lịch đường sông nếu được hỗ trợ đúng hướng có thể trở thành nền tảng cho quá trình chuyển đổi sinh kế bền vững. Khung sinh kế bền vững (SLF) và du lịch cộng đồng (CBT) cho thấy rõ: sự kết hợp giữa nâng cao năng lực cá nhân, hỗ trợ chính sách, liên kết cộng đồng và gìn giữ giá trị văn hóa địa phương là yếu tố then chốt để nâng cao tính thích ứng và nội lực cho cộng đồng ven sông (DFID, 1999; Goodwin và Santilli, 2009).
Thực tế tại một số quốc gia Đông Nam Á cho thấy, những rào cản tương tự đã từng được khắc phục hiệu quả nhờ cơ chế hỗ trợ linh hoạt và lộ trình đào tạo cộng đồng bài bản. Tại Thái Lan, mô hình du lịch cộng đồng ở vùng sông nước Amphawa và Ayutthaya được xây dựng dựa trên nền tảng liên kết giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp và nhóm cộng đồng nòng cốt, qua đó nâng cao năng lực tổ chức sản phẩm du lịch, quản lý tài nguyên và giữ vững bản sắc văn hóa. Ở Philippines, các chương trình hỗ trợ du lịch ven sông tại Bohol và Loboc River còn chú trọng đến việc tái phân phối lợi ích du lịch và tăng cường vai trò của phụ nữ, giúp tạo sinh kế bền vững hơn và giảm dần tình trạng di dân nông thôn (Alampay, 2015). Những kinh nghiệm này cho thấy nếu có sự đầu tư đúng hướng, du lịch cộng đồng sông nước hoàn toàn có thể trở thành nền tảng sinh kế ổn định và tự chủ, không chỉ tại TP. Cần Thơ mà còn ở nhiều vùng đồng bằng tương tự tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, du lịch đường sông đang từng bước trở thành nguồn sinh kế bổ sung quan trọng tại các cộng đồng ven sông ở TP. Cần Thơ. Hoạt động này không chỉ góp phần đa dạng hóa thu nhập mà còn tạo điều kiện bảo tồn nghề truyền thống, khai thác tài nguyên bản địa và từng bước định hình mô hình sinh kế kép. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi vẫn gặp nhiều trở ngại như kỹ năng nghề chưa hoàn chỉnh, thiếu kết nối vùng và hạ tầng chưa đồng bộ.
Đáng chú ý, bên cạnh các thay đổi về vật chất, du lịch còn thúc đẩy những chuyển biến quan trọng về mặt phi vật chất. Nhiều hộ dân thể hiện sự thay đổi tích cực trong nhận thức, sự tự tin khi tiếp xúc với du khách và khơi lại niềm tự hào về bản sắc địa phương. Đặc biệt, phụ nữ, người cao tuổi và thanh niên bắt đầu đóng vai trò chủ động hơn trong chuỗi giá trị du lịch từ hướng dẫn, ẩm thực đến trình diễn văn hóa. Những chuyển đổi này cho thấy, du lịch không chỉ là kênh sinh kế mà còn là chất xúc tác cho sự tái cấu trúc vai trò xã hội và nâng cao năng lực cộng đồng, góp phần xây dựng nền tảng phát triển bền vững về lâu dài.
Việc áp dụng kết hợp khung lý thuyết SLF và CBT cho phép đánh giá toàn diện cả về kinh tế, xã hội lẫn không gian tổ chức sinh kế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mô hình sinh kế bền vững chỉ khả thi khi du lịch được tổ chức theo hướng cụm - tuyến, gắn kết vùng, đồng thời tôn trọng các giá trị văn hóa và vai trò nội sinh của cộng đồng ven sông. Trong bối cảnh đô thị hóa và biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, việc phát huy các yếu tố phi vật chất như: bản sắc, nhận thức và năng lực tự chủ sẽ là chìa khóa để chuyển đổi sinh kế người dân theo hướng bền vững và có bản sắc tại vùng sông nước TP. Cần Thơ.
(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15.
Tài liệu tham khảo:
1. Alampay, R. (2015). Community-based tourism in the Philippines: Empowering communities in Bohol. ASEAN Tourism Forum Proceedings.
2. Dao, M. T. H., & Dredge, D. (2020). Local participation and power dynamics in community-based tourism in Vietnam. Current Issues in Tourism, 23(14), 1746-1760. https://doi.org/10.1080/13683500.2019.1649372
3. DFID. (1999). Sustainable livelihoods guidance sheets. Department for International Development.
4. Goodwin, H., & Santilli, R. (2009). Community-based tourism: A success? ICRT Occasional Paper (11), 1-37.
5. Hall, C. M., & Härkönen, T. (2006). Lake tourism: An integrated approach to lacustrine tourism systems. Channel View Publications.
6. Madsen, J., & Nielsen, T. D. (2023). Revisiting sustainable livelihoods: Adaptive capacities of riverine communities under climate stress. Journal of Rural Studies, 99, 104765. https://doi.org/10.1016/j.jrurstud.2023.104765
7. Mitchell, J., & Ashley, C. (2010). Tourism and poverty reduction: Pathways to prosperity. Earthscan.
8. Smith và cộng sự (2024). Community-based tourism in deltaic regions: Scale, space, and governance. Tourism Geographies. Advance online publication. https://doi.org/10.1080/14616688.2024.2301122
9. Silverman, D. (2020). Interpreting qualitative data (6th ed.). SAGE Publications.
10. Võ, H. T. T. (2022). Phát triển du lịch bền vững trong bối cảnh liên kết vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Xã hội miền Nam, 65(4), 45-52.
Ngày nhận bài: 27/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 30/7/2025; Ngày duyệt đăng: 1/8/2025 |