Đề xuất giải pháp liên kết doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại việt nam

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích thực trạng liên kết hiện nay, đánh giá các khó khăn khiến mức độ liên kết còn thấp, thiếu tính hệ thống và chiến lược. Từ đó, nghiên cứu đưa ra đề xuất giải pháp liên kết doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế.

Nguyễn Thu Trâm

Học viện ngân hàng

Email: tramnt@hvnh.edu.vn

Tóm tắt

Hoạt động liên kết doanh nghiệp và trường đào tạo khối ngành kinh tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam có tính cấp thiết ngày càng lớn, trong bối cảnh các đổi mới về khoa học công nghệ đã thay đổi môi trường kinh doanh và hoạt động vận hành của doanh nghiệp gây ra các hệ lụy như chương trình đào tạo tại trường học không thay đổi kịp với nhu cầu lao động, động lực hoàn thành chương trình đào tạo của sinh viên giảm, lãng phí nguồn lực cả trong trường đại học và doanh nghiệp. Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích thực trạng liên kết hiện nay, đánh giá các khó khăn khiến mức độ liên kết còn thấp, thiếu tính hệ thống và chiến lược. Từ đó, nghiên cứu đưa ra đề xuất giải pháp liên kết doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế, trong đó làm rõ các mức độ áp dụng, lộ trình, đối tượng tham gia và mục tiêu của từng giai đoạn.

Từ khóa: Liên kết doanh nghiệp và trường đại học, nhân sự chất lượng cao, khối ngành kinh tế

Summary

The linkage between enterprises and higher education institutions in the field of economics has become increasingly urgent in Vietnam, particularly as innovations in science and technology have transformed the business environment and corporate operations. These changes have led to challenges such as misalignment between academic curricula and labor market demands, reduced student motivation to complete academic programs, and inefficiencies in the use of resources by both universities and businesses. This study aims to analyze the current state of enterprise–university collaboration, identifying the difficulties that result in limited, unsystematic, and non-strategic linkage. Based on this analysis, the study proposes a set of solutions to foster the aforementioned collaboration, detailing levels of implementation, stages, involved stakeholders, and objectives for each phase.

Keywords: Enterprise–university collaboration, high-quality human resources, economics field

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhận thức được tầm quan trọng của việc liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp, Chính phủ cũng đã đưa ra những định hướng liên kết trong Luật Giáo dục năm 2019. Theo đó, Luật Giáo dục năm 2019 quy định “Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của thị trường, nghiên cứu triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ… tạo điều kiện để người học và giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo”. Tuy nhiên, triển khai liên kết như thế nào để tạo được hiệu quả cho cả trường đại học và doanh nghiệp còn gặp nhiều trở ngại. Điều này càng khó khăn hơn với khối ngành kinh tế, khi các tình huống kinh tế xảy ra thường đa dạng, trong khi nội dung đào tạo chỉ có thể đưa ra được một số tình huống điển hình. Đặc điểm này có thể gây khó cho việc xây dựng mô hình liên kết doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế phù hợp. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu với mục tiêu xây dựng mô hình liên kết doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nhưng đến thời điểm hiện nay việc triển khai vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc xây dựng mô hình liên kết hiệu quả là vấn đề mang tính cấp thiết cao, cần phải thực hiện nhanh chóng. Nghiên cứu này tìm hiểu về thực trạng liên kết của các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo khối ngành kinh tế, đánh giá các khó khăn trong triển khai và từ đó đưa ra đề xuất phù hợp với bối cảnh hiện nay.

THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP VÀ CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO KHỐI NGÀNH KINH TẾ

Để phân tích và đánh giá thực trạng liên kết doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn sâu 20 người là cán bộ phụ trách đào tạo và các giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy tại 4 trường đại học có chương trình đào tạo thuộc khối ngành kinh tế trong tháng 3/2025.

Thực trạng mức độ liên kết doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo khối ngành kinh tế

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay, các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo có thể liên kết với nhau theo đa dạng các phương pháp, trong đó phổ biến nhất là theo 4 mức độ: thông tin - phối hợp - hợp tác chiến lược và đồng vận hành, cụ thể như sau:

Mức độ 1 - Thông tin: Đây là mức liên kết cơ bản và thấp nhất. Doanh nghiệp và các trường đại học trao đổi thông tin với nhau nhưng không có sự phối hợp thực hiện hoạt động đào tạo hay nghiên cứu khoa học. Một số hoạt động được thực hiện ở cấp độ này như chia sẻ các nghiên cứu, báo cáo, hoặc doanh nghiệp gửi thông tin, nhu cầu tuyển dụng đến trường để thông báo với sinh viên; trường tổ chức các ngày hội việc làm, mời doanh nghiệp đến giới thiệu cơ hội nghề nghiệp; doanh nghiệp tham gia khảo sát đầu ra, phản hồi chất lượng sinh viên đã tuyển dụng. Mặc dù là phương thức liên kết thấp, nhưng phương thức này lại được hầu hết các trường đại học sử dụng, bởi các lợi ích về thời gian, chi phí, tiếp cận được số lượng sinh viên lớn.

Mức độ 2 - Phối hợp: Ở mức độ này, doanh nghiệp và các trường đại học phối hợp thực hiện một số hoạt động mang tính thường xuyên, nhưng vẫn ở mức từng hoạt động riêng lẻ, không mang tính chiến lược dài hạn. Mức độ này được thể hiện ở các hoạt động phổ biến như trường đại học mời và các doanh nghiệp có thể cử chuyên gia đến tham gia giảng dạy chuyên đề ngắn hạn cung cấp kiến thức, kĩ năng thực tế, các lớp học kĩ năng mềm, mô phỏng tình huống doanh nghiệp. Các chuyên gia của doanh nghiệp có thể tham gia làm người chấm kết quả thực tập, đồ án tốt nghiệp. Một phương pháp cũng thường thấy ở mức độ phối hợp này là doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên đến thực tập trong một thời gian nhất định.

Mức độ 3 - Hợp tác chiến lược: Ở mức độ này, nhà trường ký kết hợp tác với các doanh nghiệp, gắn với định hướng mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp, đảm bảo khi sinh viên ra trường có thể có được các kiến thức, kĩ năng phù hợp để có thể làm việc được tại các doanh nghiệp ngay khi rời ghế nhà trường. Để làm được điều này, các hoạt động thường được thực hiện bao gồm liên kết xây dựng chương trình đào tạo, trong đó doanh nghiệp tham gia các hoạt động xây dựng, thẩm định chương trình đào tạo, thậm chí chi tiết đến đề cương của mỗi học phần; giảng viên doanh nghiệp tham gia giảng dạy chính thức trong học kì; xây dựng “học kì doanh nghiệp”, sinh viên học 1 kỳ tại doanh nghiệp như một phần của chương trình; doanh nghiệp tài trợ học bổng tài chính hoặc tài liệu, nguồn lực phục vụ cho các dự án nghiên cứu của giảng viên hoặc học tập của sinh viên.

Mức độ 4 - Đồng vận hành: Đây được xem là mức độ cao nhất nhưng cũng khó thực hiện nhất trong liên kết giữa doanh nghiệp và trường đại học. Các hoạt động được thực hiện ở mức độ này như doanh nghiệp và trường đại học đồng sáng lập học viện đào tạo, viện nghiên cứu, thành lập chương trình đào tạo mang tên doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có thể đặt hàng đào tạo riêng và cùng vận hành chương trình như trường phụ trách hoạt động đào tạo, doanh nghiệp bảo trợ chương trình, đảm bảo đầu ra tuyển dụng.

Có thể thấy rằng, mức độ càng cao thì hoạt động và thời gian liên kết càng sâu hơn, nhưng cũng tốn kém nguồn lực hơn và số lượng sinh viên có thể tiếp cận với chương trình hạn chế hơn.

Bảng 1: So sánh các mức độ liên kết giữa trường đại học và các doanh nghiệp

Đề xuất giải pháp liên kết doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại việt nam
Nguồn: Tác giả tổng hợp và phân tích

Một số chương trình đào tạo khối ngành kinh tế hiện nay thu hút được nhiều doanh nghiệp liên kết phải kể đến các ngành, như: quản trị kinh doanh, marketing, logistics và quản lý chuỗi cung ứng, quản trị nhân lực… Ngoài ra, các trường đại học lớn thường thu hút được sự quan tâm liên kết của các doanh nghiệp nhiều hơn các trường có quy mô nhỏ hơn.

So sánh chi tiết các mức độ liên kết giữa trường đại học và các doanh nghiệp được thể hiện ở Bảng 1 cho thấy mối liên kết hiện nay được xây dựng ở mức độ 1-3, trong đó phần lớn tập trung ở mức độ một và hai, do nguồn lực cần có để xây dựng liên kết ít hơn, số lượng sinh viên được tiếp cận và nhận được cái lợi ích từ chương trình nhiều hơn, chương trình có thể xây dựng phù hợp với nhu cầu phát sinh thực tiễn trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, vì độ sâu của liên kết ở mức độ 1 và mức độ 2 còn thấp, nên sẽ chỉ hiệu quả đối với những sinh viên chủ động và nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện năng lực tư duy và năng lực thực hành ngay từ trên ghế nhà trường. So với hai mức độ này, mức độ 3 hiện nay đang ít được sử dụng hơn, nhưng cũng đang phát triển rất mạnh do những lợi ích mà mức độ liên kết này mang lại. Nguồn lực đầu tư mặc dù cao hơn, nhưng mức độ tham gia của doanh nghiệp lại sâu hơn nhiều và mang tính hệ thống, xuyên suốt từ đầu vào (như xây dựng và thẩm định chương trình đào tạo, đề cương các học phần), quá trình (như tham gia giảng dạy ngay tại trường đại học hoặc doanh nghiệp) và đầu ra (nhận thực tập sinh hoặc thậm chí tuyển dụng sinh viên sau tốt nghiệp). Mức độ 4 thể hiện mức liên kết cao nhất, doanh nghiệp và trường học như hai “đồng sở hữu” và chịu trách nhiệm ngang nhau trong việc đào tạo sinh viên chất lượng cao ra trường. Tuy nhiên, mức độ này hiện nay chưa có nhiều tại Việt Nam.

Một số khó khăn trong triển khai liên kết giữa doanh nghiệp và trường đại học trong khối ngành kinh tế

Mặc dù là vấn đề đã được nghiên cứu từ rất lâu, việc triển khai liên kết giữa doanh nghiệp và trường đại học trong khối ngành kinh tế hiện nay tại Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Nếu không nói đến các khó khăn bên ngoài như sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đặc biệt là các yếu tố về kinh tế, văn hóa và công nghệ, hay các yếu tố bên trong như thiếu các nguồn lực về tài chính và con người, năng lực và động lực của giảng viên, sinh viên, những khó khăn chính trong triển khai liên kết giữa doanh nghiệp và trường đại học trong khối ngành kinh tế phải kể đến các nội dung sau:

Một là, khác biệt về mục tiêu và khả năng thay đổi giữa doanh nghiệp và các trường đại học: Trường đại học hướng đến giáo dục toàn diện, chú trọng đến lý luận và phát triển năng lực tư duy, khả năng nhìn nhận vấn đề tổng hợp trong dài hạn. Trong khi đó, doanh nghiệp lại cần nhân lực làm được việc ngay, tập trung vào kỹ năng của một vị trí công việc cụ thể. Bên cạnh đó, nếu nhìn dưới góc độ nghiên cứu khoa học, hoạt động nghiên cứu và phát triển của giảng viên luôn cần nhiều thời gian để tạo ra tri thức mới, trong khi doanh nghiệp cần giải pháp cho vấn đề nhanh nhất có thể để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong hiện tại.

Hai là, thiếu cơ chế phối hợp cụ thể, cả theo hướng vĩ mô và vi mô: Nhìn theo hướng vĩ mô, mặc dù đã được Chính phủ quan tâm trong thời gian vừa qua, khi định hướng liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp là vấn đề cấp thiết để có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhưng nhiều vướng mắc về cơ chế vẫn chưa được tháo gỡ như quyền của trường đại học trong việc xây dựng chương trình đào tạo cần được mở rộng hơn là linh hoạt hơn. Nhìn theo hướng vi mô, các liên kết hiện nay ở Việt Nam thường là thỏa thuận hợp tác đơn giản, không ràng buộc trách nhiệm cụ thể. Đặc biệt, không làm rõ được các nội dung như đối tượng xây dựng, phạm vi tham gia của doanh nghiệp-nhà trường, trách nhiệm của các bên, đối tượng thụ hưởng (chương trình dành cho đối tượng sinh viên năm nào, với nội dung và phương pháp như thế nào mang lại hiệu quả nhất), tỉ lệ phân chia chi phí - lợi nhuận, đối tượng và phương pháp đo lường và đảm bảo chất lượng của chương trình đào tạo, đặc biệt là tại các học phần có sự tham gia của cả giảng viên từ trường đại học và doanh nghiệp.

Ba là, hạn chế về năng lực triển khai ở cả hai phía: Đối tượng triển khai chương trình đào tạo liên kết từ cả hai phía đều có những nhược điểm của mình. Một bộ phận giảng viên hiện nay thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong ngành nhưng lại có các kiến thức và khả năng nghiên cứu tổng hợp về ngành đó, bên cạnh đó là kĩ năng giảng dạy giúp cho người học hiểu được nội dung rõ ràng hơn, thu hút được sự tập trung của người học. Trong khi đó, các giảng viên đến từ doanh nghiệp có thể có kiến thức và kĩ năng thực hiện một công việc cụ thể trong ngành, nhưng họ có thể chỉ nắm được nghiệp vụ của một vị trí công việc nào đó, không có cái nhìn hệ thống, hoặc kĩ năng giảng dạy chưa nhiều, chưa truyền tải được nội dung một cách rõ ràng để người học có thể hiểu được. Việc đào tạo thêm sinh viên bên cạnh các công việc thường ngày có thể tạo áp lực lớn đối với nhân viên của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa có bộ phận riêng làm việc với nhà trường nên thiếu chuyên nghiệp và không nhất quán trong hợp tác.

Bốn là, các kiến thức và kĩ năng trong khối ngành kinh tế đa dạng theo từng tình huống kinh doanh: So với các vấn đề trong khối ngành kĩ thuật, các vấn đề trong khối ngành kinh tế thường đa dạng hơn, với nhiều tình huống kinh doanh khác nhau. Điều này gây khó ngay cả trong doanh nghiệp trong vấn đề xây dựng chương trình đào tạo, làm sao để có thể đào tạo được người lao động với các kiến thức, kĩ năng cần thiết, đảm bảo người học sau khi ra trường có thể xử lý được tốt nhất tất cả các tình huống sẽ phát sinh trong quá trình họ làm việc. Đây là một thách thức mà không phải doanh nghiệp hay trường đại học nào có thể đảm bảo được hoàn toàn đối với sinh viên khối ngành kinh tế. Điều này đặc biệt khó khăn khi tại các trường đại học hiện nay, số lượng các sinh viên trong mỗi lớp cao sẽ cản trởviệc hướng dẫn thực hành cho khối lượng sinh viên lớn thạo nghề trong khoảng thời gian giới hạn.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Kết quả nghiên cứu cho thấy, liên kết được xây dựng ở mức độ 3 và mức độ 4 sẽ có sự tham gia sâu hơn của doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo, từ đó giúp nâng cao các kiến thức và kĩ năng thực tiễn cho sinh viên. Tuy nhiên, để triển khai được liên kết ở các mức độ này hệ thống tại Việt Nam là điều khó có thể thực hiện trong ngắn hạn, mà là định hướng triển khai trong tương lai. Do đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp xây dựng liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong trung và ngắn hạn, tập trung vào việc sử dụng 3 mức độ đầu tiên trong xây dựng liên kết.

Phân tích đặc điểm của các liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong khối ngành kinh tế cho thấy rằng, mỗi mức độ liên kết đều có những ưu và nhược điểm riêng. Bên cạnh đó, với các khó khăn về mục tiêu và khả năng thay đổi, cơ chế phối hợp, năng lực triển khai của người dạy, số lượng sinh viên và tình huống xử lý lớn, việc triển khai các mức độ liên kết giống nhau trong toàn bộ chương trình học rất khó thực hiện trong ngắn hạn. Dựa vào phân tích thực trạng, nghiên cứu đề xuất giải pháp áp dụng các mức độ liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong khối ngành kinh tế theo các năm học khác nhau (Bảng 2).

Liên kết cấp độ 1 (như các hoạt động tư vấn, tuyển dụng, truyền thông về các vị trí việc làm) hoặc cấp độ 2 (như mời doanh nghiệp tham gia làm diễn giả hoặc giám khảo trong các lớp học) được đề xuất áp dụng ngay từ năm nhất của chương trình đào tạo, khi sinh viên học các kiến thức đại cương. Điều này giúp người học ngay từ khi vào trường được doanh nghiệp chia sẻ không những kiến thức thực tế liên quan đến môn học, mà còn được định hướng công việc phù hợp với khả năng, từ đó có mục tiêu và động lực rõ ràng hơn trong học các năm học về sau. Việc sử dụng liên kết cấp độ 1 và cấp độ 2 giúp doanh nghiệp tiếp cận được số lượng sinh viên lớn hơn.

Bảng 2: Đề xuất mức độ liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong khối ngành kinh tế theo các năm học khác nhau

Đề xuất giải pháp liên kết doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại việt nam
Nguồn: Đề xuất của tác giả

Cấp độ 2 được đề xuất tiếp tục được sử dụng với khối chương trình cơ sở ngành. Ở cấp độ này, giảng viên ở các trường đại học vẫn đóng vai trò quan trọng trong chương trình giảng dạy, giúp sinh viên nắm được các kiến thức về kinh tế và ngành căn bản. Song song với đó được doanh nghiệp giảng dạy các kiến thức chung về hoạt động vận hành của doanh nghiệp. Điều này vừa giúp sinh viên được cung cấp các kiến thức hàn lâm căn bản, là nền tảng cho việc phân tích hoạt động, phát hiện vấn đề và nguyên nhân của vấn đề trong các năm tiếp theo. Đối với cấp độ này, đối tượng tham gia từ phía doanh nghiệp có thể là các nhân viên chuyên trách cho hoạt động đào tạo, có thể giải quyết các khó khăn về nguồn lực.

Liên kết cấp độ 3 được đề xuất với các môn học chuyên ngành, với mục tiêu giúp sinh viên nắm được kiến thức chuyên ngành chuyên sâu, áp dụng được thành thạo kiến thức và kĩ năng tại một vị trí công việc cụ thể, đồng thời có thể hiểu được tổng quan vị trí của công việc và đường dẫn sự nghiệp, giúp cho sự phát triển sự nghiệp của người học trong tương lai. Tuy nhiên, với số lượng sinh viên lớn trong mỗi lớp thuộc khối ngành kinh tế như hiện nay, trong ngắn hạn cấp độ 3 được đề xuất với những sinh viên thể hiện được năng lực, mục tiêu và động lực rõ ràng. Các chương trình cấp độ 3 có thể được xây dựng dưới hình thức học bổng dành cho các sinh viên có năng lực và thái độ vượt trội trong khóa. Cấp độ ba có thể được sử dụng với các lớp tiên tiến, chất lượng cao có số lượng sinh viên kinh tế ít hơn trong mỗi lớp. Trong dài hạn, cấp độ 3 được đề xuất áp dụng với tất cả các sinh viên, nhằm cung cấp cả kiến thức và thực tiễn, giúp sinh viên có thể thực hiện và phát triển công việc một cách tốt nhất.

Bảng 2 cũng thể hiện rằng, trường đại học và doanh nghiệp liên kết với nhau ở tất cả các mức độ liên kết và các khối điến thức qua các năm. Tuy nhiên, càng ở cấp độ cao, mức độ tham gia trong giảng dạy của giảng viên đến từ trường đại học sẽ giảm dần, dành thời gian cho các hoạt động liên kết về nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, mức độ tham gia trong giảng dạy của giảng viên đến từ các doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng lên, cung cấp các kiến thức và kĩ năng thực tiễn, đặc biệt trong khối kiến thức qua các năm. Điều này chỉ có thể được thực hiện nếu Nhà nước và các Bộ, ban ngành liên quan xây dựng cơ chế mở hơn nữa, giúp trường đại học có quyền tự quyết nhiều hơn trong xây dựng chương trình đào tạo liên kết với doanh nghiệp.

Có thể thấy rằng, liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp với mục tiêu đào tạo được nguồn nhân lực khối ngành kinh tế chất lượng cao mang tính cấp thiết lớn, và là nội dung đã được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, kết quả phân tích thực trạng triển khai liên kết cho thấy, mức độ liên kết còn thấp hơn kỳ vọng và chưa tạo ra được các hiệu quả mong muốn. Dựa trên phân tích các khó khăn trong triển khai liên kết giữa các doanh nghiệp và trường đại học khối ngành kinh tế, nghiên cứu đã đưa ra đề xuất giải pháp xây dựng liên kết cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong đó, tập trung vào các giải pháp trong ngắn và trung hạn phù hợp với bối cảnh của nước ta, khi gắn các mức độ liên kết với các khối kiến thức khác nhau. Giải pháp cũng đã xác định được mục tiêu cũng như đối tượng tham gia của từng mức độ khi áp dụng, giúp cải thiện được khó khăn trong triển khai hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Kim Dung và Phạm Thị Hương (2017). Thực trạng hợp tác của các trường đại học với doanh nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học, 14(4), 29

2. Quốc hội (2019), Luật Giáo dục, số 43/2019/QH14, ngày 14/6/2019.

3. Phạm Hồng Quang và Nguyễn Danh Nam (2023). Giải pháp tăng cường hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học & Công nghệ – Đại học Thái Nguyên, 228(4).

4. Phạm Thị Thùy Trang, Bùi Thị Thúy, Nguyễn Thị Thu Thủy, Hoàng Trọng Hùng (2019), Thúc đẩy liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp: trường hợp nghiên cứu tại Trường đại học Kinh tế - Đại học Huế, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, 28(5A).

Ngày nhận bài: 06/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/6/2025; Ngày duyệt đăng: 20/6/2025