Thiếu tá, TS. Nguyễn Trọng Luật
Phó Chủ nhiệm Bộ môn Triết học, Khoa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Kỹ thuật quân sự
Email: trongluat3288@gmail.com
Tóm tắt
Là lực lượng nòng cốt thực hiện các nội dung công tác kỹ thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự luôn có vai trò đặc biệt, góp phần quyết định, bảo đảm cho Quân đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, mà trọng tâm là chuyển đổi số có tác động ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc đến mọi khía cạnh của đời sống - xã hội, trong đó có lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Thông qua kết quả khảo sát đối với 600 cán bộ kỹ thuật quân sự tại các cơ quan, đơn vị, nhà trường kỹ thuật quân đội, bài viết nhằm phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó, đề xuất một số giải pháp liên quan.
Từ khóa: đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự, công tác kỹ thuật, Quân đội nhân dân Việt Nam, chuyển đổi số
Summary
As the core force responsible for technical operations within the Vietnam People's Army, the military technical personnel play a pivotal role in ensuring effective fulfillment of the Army’s tasks. Currently, the Fourth Industrial Revolution, particularly the emphasis on digital transformation, increasingly impacts on all aspects of socio-economic life, including the fields of military and national defense. Based on a survey of 600 military technical officers from various military agencies, units, and technical training institutions, the study analyzes the current state and quality of the military technical workforce in the context of the Fourth Industrial Revolution, thereby proposing several relevant policy recommendations.
Keywords: military technical personnel, technical operations, Vietnam People's Army, digital transformation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự (KTQS) là lực lượng nòng cốt thực hiện các nội dung công tác kỹ thuật (CTKT) trong Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN); chất lượng của đội ngũ này luôn có vai trò đặc biệt, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần quyết định, bảo đảm cho quân đội luôn hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Đứng trước yêu cầu chuyển đổi số (CĐS), với định hướng xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại, việc con người làm chủ trang thiết bị, khí tài hiện đại, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, CĐS trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc càng trở nên quan trọng. Hiện nay, để đảm bảo thực hiện tốt nội dung CTKT trong QĐNDVN, đội ngũ cán bộ KTQS cần có những đặc trưng về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị, kỷ luật, nghiệp vụ, khả năng sáng tạo, thích ứng nhanh... Đây là một trong những nội dung trọng tâm về xây dựng QĐNDVN hiện đại trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhằm đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, tác giả đã tiến hành khảo sát đối với cán bộ kỹ thuật quân sự tại các cơ quan, đơn vị, nhà trường kỹ thuật quân đội. Cụ thể: Đơn vị khảo sát là Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Hải quân; Quân chủng Phòng không - Không quân, Bộ tư lệnh 86, Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc, Viện Khoa học Công nghệ quân sự. Đối tượng khảo sát: 62 cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, 160 cán bộ chuyên môn kỹ thuật; 240 cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; 138 cán bộ doanh nghiệp, sản xuất quốc phòng. Thời gian khảo sát được tiến hành từ tháng 6-10/2024.
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KỸ THUẬT QUÂN SỰ TRONG ĐIỀU KIỆN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
Kết quả đạt được
Một là, cán bộ KTQS hiện nay có phẩm chất chính trị tiêu biểu, năng lực chuyên môn vững vàng dựa trên nền tảng thể chất đảm bảo, đời sống tinh thần ngày càng phong phú.
(i) Phẩm chất chính trị, đạo đức của tuyệt đại đa số cán bộ KTQS hiện nay được các cấp đánh giá là “có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, lối sống lành mạnh; tinh thần trách nhiệm cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” (Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật, 2019).
Với việc xây dựng quân đội trong điều kiện CMCN 4.0, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã có các nghị quyết, chương trình hành động nhằm nâng cao năng lực tiếp cận của quân đội với cuộc cách mạng công nghệ này, trong đó có ngành Kỹ thuật QĐNDVN. Khi được hỏi: “Đồng chí cho biết ý kiến về quan điểm tiếp cận của Đảng, Nhà nước với cuộc CMCN lần thứ tư?”, có đến 93,29% ý kiến trong tổng số cán bộ KTQS được hỏi đã trả lời hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương. Bên cạnh đó, quốc phòng, quân sự là lĩnh vực ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, các cuộc chiến tranh nếu xảy ra trong tương lai, đều là chiến tranh sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật công nghệ cao, quy mô lớn, cường độ cao, sức hủy diệt lớn; tuy nhiên, khi được hỏi: “Theo đồng chí, Việt Nam có khả năng đánh trả thành công các cuộc tấn công, xâm lược khi kẻ thù sử dụng các loại vũ khí trang bị hiện đại, có sức hủy diệt lớn?”, thì có đến 79,5% ý kiến trả lời tin tưởng sẽ đánh trả thành công. Trong đó, 100% cán bộ lãnh đạo chỉ huy, 97,5% cán bộ chuyên môn kỹ thuật, 99,17% cán bộ nghiên cứu giảng dạy và 87,68% cán bộ doanh nghiệp, sản xuất quốc phòng đều bày tỏ sự tin tưởng.
Đặc biệt, CMCN 4.0 mang lại rất nhiều cơ hội việc làm ở những ngành công nghệ hiện đại với thu nhập, đãi ngộ hấp dẫn ở môi trường dân sự. Tuy nhiên, có tới 87,4% cán bộ KTQS, đặc biệt là các cán bộ thuộc các chuyên ngành có liên quan mật thiết với những công nghệ tiên tiến, hiện đại (AI, VR, Big Data…) được hỏi đều trả lời có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong quân đội; cụ thể, có 98,4% cán bộ lãnh đạo chỉ huy, 98% cán bộ chuyên môn kỹ thuật, 96,6 % cán bộ nghiên cứu giảng dạy và 97,9 % cán bộ doanh nghiệp, sản xuất quốc phòng. Trong quá trình xây dựng lực lượng của mình, Bộ tư lệnh Tác chiến Không gian mạng cũng đã tuyển dụng được số lượng lớn các kỹ sư, chuyên gia dân sự vào phục vụ trong quân đội. Đây là những minh chứng cho những yếu tố tích cực trong bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ KTQS trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
(ii) Năng lực chuyên môn, phong cách người cán bộ KTQS nhìn chung ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kỹ thuật trong giai đoạn mới. Nhìn chung, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy tại các học viện, nhà trường KTQS có trình độ ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Kết quả khảo sát cho thấy, tính đến tháng 10/2024, Học viện Kỹ thuật quân sự có trên 88,5 % giảng viên đạt trình độ sau đại học, trong đó có 439 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 10 GS, 84 PGS. Riêng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu tại các khoa chuyên ngành, viện và trung tâm nghiên cứu với vai trò là lực lượng nghiên cứu nòng cốt đã có sự biến đổi mạnh trong kết cấu về trình độ. Những kết quả trên đã minh chứng cho sự phát triển rõ rệt về trình độ của đội ngũ cán bộ KTQS trong nghiên cứu, giảng dạy.
Một trong những tiền đề quan trọng tạo nên chất lượng đội ngũ cán bộ KTQS là chất lượng ngay từ khâu tạo nguồn tại các học viện, nhà trường kỹ thuật. Trong giai đoạn 2015-2020, học viên tốt nghiệp tại Học viện Phòng không – Không quân đạt kết quả khá, giỏi, xuất sắc trở lên đạt gần 70%, con số trong giai đoạn cùng kỳ tại Học viện Kỹ thuật quân sự là 83,5%. Khảo sát đội ngũ cán bộ KTQS tại các tổng cục, viện nghiên cứu, trung tâm khoa học kỹ thuật cũng có sự phát triển nhanh. Hiện tại có hơn 2000 cán bộ KTQS có trình độ học vấn từ sau đại học trở lên và có chức danh khoa học. Riêng tại Tổng cục Kỹ thuật, tỷ lệ cán bộ được đào tạo đại học trở lên luôn ở mức cao, theo đó, có 95,04% cán bộ được đào tạo từ trình độ đại học trở lên, tăng 10,18% so với năm 2020.
(iii) Yếu tố thể chất và tinh thần của đội ngũ cán bộ KTQS có nhiều thuận lợi ngay từ khâu tuyển chọn tạo nguồn tại các học viện, nhà trường KTQS. Khi được hỏi về thói quen rèn luyện sức khỏe, hơn 70% cán bộ KTQS cho biết dành ít nhất 3 ngày trong tuần để rèn luyện thể thao. Trong đó, có 37% cán bộ lãnh đạo chỉ huy, 83,12% cán bộ chuyên môn kỹ thuật, 68,33 % cán bộ nghiên cứu giảng dạy và 78,98 % cán bộ doanh nghiệp, sản xuất quốc phòng. Sự nhận thức này là nguyên nhân quan trọng đối với việc duy trì sức khỏe, thể lực phục vụ quá trình công tác của cán bộ KTQS.
Hai là, hầu hết cán bộ KTQS hiện nay có khả năng hoạt động thực tiễn hiệu quả, hoàn thành tốt các nội dung, nhiệm vụ CTKT trong giai đoạn mới.
Cán bộ kỹ thuật nghiên cứu, giảng dạy với tiềm năng làm khoa học của mình đã có nhiều đóng góp CTKT toàn quân trong thời gian qua. Tại Học viện KTQS, đội ngũ các nhà giáo nghiên cứu bên cạnh hoạt động giảng dạy đã có nhiều công trình nghiên cứu có tính thực tiễn cao. Ứng dụng những thành tựu công nghệ mới nhất từ cuộc CMCN lần thứ tư trong việc trực tiếp thực hiện Chương trình sản phẩm Quốc gia “Thiết bị ảnh nhiệt dung trong quân sự”, dự án “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo trạm sonar chủ động - thụ động trên tàu mặt nước hải quân”, dự án “sản xuất pin nhiệt hóa cho tên lửa TL-01”… Từ năm 2020 đến năm 2024, đã thực hiện hơn 100 đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ, tổng giá trị các hợp đồng, dịch vụ khoa học - công nghệ hơn 1.200 tỷ đồng. Số lượng bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế uy tín tăng từ 391 bài (năm 2020) lên 1292 bài (năm 2024). Đặc biệt, nhằm hiện thực hóa “Kế hoạch hành động của hệ thống nhà trường quân đội trước tác động của cuộc CMCN lần thứ tư giai đoạn 2018-2020 và những năm tiếp theo” theo tinh thần Quyết định số 889/QĐ-BQP, ngày 22/3/2018 của Bộ Quốc phòng, Học viện Kỹ thuật quân sự đã tập trung xây dựng 18 nhóm nghiên cứu mạnh được công nhận nhằm tập trung nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ của CMCN lần thứ tư trong chế tạo, sửa chữa, nâng cấp các loại vũ khí thiết bị hiện đại. Đây là những nhóm nghiên cứu hứa hẹn sẽ đem lại sự nhảy vọt về khoa học - công nghệ quân sự của Việt Nam trong tương lai gần. Ở hướng nghiên cứu ứng dụng, Học viện Kỹ thuật quân sự đã nghiên cứu, chế tạo và đưa vào vận hành hệ thống robot y tế vận chuyển Vibot-2, phục vụ công tác chăm sóc bệnh nhân mắc Covid-19 tại các bệnh viện, cơ sở y tế trên cả nước. Tại Học viện Phòng không - Không quân cho thấy, 96,62% cán bộ hoàn thành tốt và xuất sắc chức trách nhiệm vụ.
Cán bộ chuyên môn kỹ thuật tại các tổng cục, quân binh chủng; cán bộ kỹ thuật tại các doanh nghiệp, sản xuất quốc phòng là lực lượng trực tiếp sản xuất, làm chủ, sử dụng, sửa chữa, bảo quản… các loại vũ khí thiết bị. Tại Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật đã đáp ứng tốt định hướng sản xuất lưỡng dụng, vừa đảm bảo hàng hóa theo hướng dân dụng để tự chủ về kinh tế, vừa sẵn sàng chuyển đổi để đáp ứng mục đích quốc phòng khi cần thiết. Năm 2024, công nghiệp quốc phòng đã triển khai thực hiện 123 đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ các cấp. Từ kết quả nghiên cứu đã có hơn 85% đề tài, nhiệm vụ được kiến nghị đưa vào sản xuất loạt “0”.
Tại các cơ quan, đơn vị kỹ thuật, do nhận thức đúng, phát huy tốt vai trò của mình, đội ngũ này đã và đang thể hiện được vai trò của mình như ở Tập đoàn Viettel, Binh chủng Thông tin liên lạc, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật... Kết quả là, từ chỗ nước ta phải nhập khẩu phần lớn vũ khí thiết bị kỹ thuật, thì đến nay đã phát triển lên trình độ mới là nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thành công một số loại vũ khí thiết bị kỹ thuật từ thông thường đến hiện đại, đảm bảo tính bảo mật, tiết kiệm cho ngân sách quốc phòng.
Tại các quân binh chủng, đội ngũ cán bộ KTQS cũng đã tiếp nhận công nghệ, làm chủ, sản xuất hàng loạt khí tài hiện đại như: Tổ hợp pháo phòng không tự hành ZSU-23-4M1, Xe trinh sát phóng xạ, hoá học ĐM-2PH, Tổ hợp pháo phản lực BM-21, Tổ hợp tên lửa phòng không S-125-2TM “Pechora-2TM”, Đài điều khiển SNR-125-2TM, Đài radar cảnh giới VRS-2DM, Tổ hợp ra-đa tầm trung “chống tàng hình” RV-02, Máy bay trinh sát không người lái hạng nhẹ tầm gần VUA-SC-3G… Có thể nói, đội ngũ cán bộ KTQS đã đưa CTKT và công nghiệp quốc phòng có bước phát triển mới, có bước đột phá về hiện đại hóa vũ khí thiết bị kỹ thuật cho lực lượng Hải quân, Phòng không - không quân là một số binh chủng, lực lượng được tiến thẳng lên hiện đại, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội; thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng vũ khí, trang bị hiện có và cải tiến, chế tạo thành công một số loại vũ khí thiết bị mới... Đây là những minh chứng sinh động cho kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ KTQS trong thời gian qua.
Một số hạn chế
Thứ nhất, chất lượng cán bộ KTQS có mặt, có bộ phận chưa theo kịp và đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của CTKT trong giai đoạn mới.
Đối với phẩm chất chính trị, bên cạnh phần lớn cán bộ KTQS có phẩm chất chính trị, đạo đức tích cực thì một bộ phận trong đó vẫn bộc lộ những hạn chế: “…cá biệt có cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Đảng và Quân đội” (Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật, 2019). Tại một số cơ quan, học viện, nhà trường KTQS cho thấy, số lượng cán bộ vi phạm và các nội dung vi phạm vẫn còn xảy ra (Đảng ủy Học viện Kỹ thuật Quân sự, 2020).
Đối với năng lực chuyên môn, đội ngũ cán bộ KTQS có chất lượng chưa đồng đều, một số cán bộ trình độ kiến thức thiếu tính hệ thống, cán bộ ở cơ quan tham mưu có đồng chí ngại nghiên cứu, khả năng đề xuất, hướng dẫn, chỉ đạo có mặt chưa sâu. Cán bộ chuyên môn kỹ thuật, nghiên cứu, giảng dạy còn thiếu cán bộ có khả năng nghiên cứu chuyên sâu, các cán bộ chuyên gia đầu ngành, “nhất là trong lĩnh vực quản lý, khai thác, bảo đảm kỹ thuật cho vũ khí thiết bị kỹ thuật mới, hiện đại, cán bộ quản lý doanh nghiệp một số đồng chí thiếu kiến thức về quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp”.
Song song với việc đảm bảo công tác chuyên môn kỹ thuật với những yêu cầu ngày càng cao trong thực tiễn, đội ngũ cán bộ KTQS đã phải đối mặt với nhiều áp lực, sức ép về mặt tinh thần. Kết quả khảo sát tại Học viện Quân y đã chỉ ra rằng, tỷ lệ thủy thủ tàu ngầm có căng thẳng tâm lý là 77,3%, số thủy thủ tàu ngầm có trạng thái lo âu thường xuyên mức độ vừa là 70,7%.
Thứ hai, sự dịch chuyển cơ cấu còn bất cập, số lượng chưa thực sự hợp lý ở một số lĩnh vực mới, phương thức liên kết của đội ngũ cán bộ KTQS có mặt còn thiếu bền vững.
Thực tiễn trong thời gian gần đây cho thấy, số lượng cán bộ KTQS có chức danh, học vị khoa học tăng chậm ở một số chuyên ngành, một số đơn vị kỹ thuật số lượng cán bộ còn có xu hướng giảm do chủ trương tổ chức, sắp xếp lại đội ngũ theo hướng “tinh, gọn, mạnh”. Trong thời gian trước mắt, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu về số lượng, nhưng nơi thừa không thể bổ sung cho nơi thiếu sẽ còn diễn ra.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ KTQS có mặt còn chưa hợp lý, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, tập trung vào cơ cấu tuổi và chức danh. Hiện nay số cán bộ KTQS có chức danh, học vị mới tăng chậm trong khi số đến tuổi nghỉ chế độ có xu hướng tăng lên. Hơn nữa, ở một số cơ quan, đơn vị kỹ thuật, số lượng cán bộ này giữ vị trí chỉ huy so với các chức danh khác còn cao. Những bất hợp lý đó đã và đang gây ra những cản trở cho sự phát triển và thể hiện vai trò của đội ngũ này.
Thứ ba, năng lực hoạt động thực tiễn, kết quả thực hiện nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ KTQS còn có những hạn chế, chưa thể hiện được vai trò chuyên trách, chủ yếu và nòng cốt của đội ngũ.
Qua khảo sát thực tiễn ở nội dung tiến hành công tác kỹ thuật, chỉ huy tham mưu kỹ thuật ở các cơ quan, đơn vị phản ánh một phần những mặt hạn chế của đội ngũ này. Năm 2024, qua rà soát chất lượng một số cán bộ KTQS tốt nghiệp từ Học viện KTQS đang công tác tại các đơn vị của 2 tổng cục, 2 quân chủng và 1 viện nghiên cứu cho thấy còn có một số cán bộ đạt chất lượng hoàn thành nhiệm vụ ở mức trung bình, cá biệt có trường hợp yếu. Điển hình, ở tiêu chí phương pháp tổ chức, quản lý thì mức đánh giá trung bình vẫn có nơi lên đến 16%; về phẩm chất đạo đức có đơn vị đánh giá 6% cán bộ ở mức trung bình; về tác phong chỉ huy, lãnh đạo, có đơn vị mức đánh giá tốt chỉ đạt 11% trong khi vẫn còn 2% bị đánh giá yếu; về năng lực tham mưu kỹ thuật có mức đánh giá trung bình cao, có đơn vị có tỉ lệ 18%.
Một bộ phận trong đội ngũ còn nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của mình, có biểu hiện của tư tưởng cầm chừng, ngại rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ, tác phong đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đơn vị. Một số “có biểu hiện cầm chừng, chưa tích cực tự nghiên cứu học tập, làm việc còn thụ động chờ trên, ngại va chạm, sợ liên đới trách nhiệm cá nhân”. Qua kết quả khảo sát, chỉ có 26,56% ý kiến cán bộ lên kế hoạch nhằm tự bồi dưỡng, nâng cao năng lực, tình độ của bản thân. Trong khi đó có 31,24% chưa có kế hoạch. Có tới 48% ý kiến cán bộ được hỏi sử dụng thời gian rảnh rỗi vào các mục đích khác ngoài chuyên môn hoặc nâng cao trình độ ngoại ngữ. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ tại các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất quốc phòng còn thiếu kiến thức khoa học quản lý, kiến thức kinh tế, hiểu biết về pháp luật (đặc biệt là luật kinh doanh) còn hạn chế.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ KTQS đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong QĐNDVN hiện nay, theo tác giả, cần lưu ý một số vấn đề sau:
Một là, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tốt việc học tập, quán triệt, tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và công tác cán bộ trong quân đội.
Chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội trong tình hình mới, trong đó có đội ngũ cán bộ KTQS. Nắm vững những mặt tác động toàn diện của CĐS đến nội dung, hình thức nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ KTQS, nắm chắc các tác động tích cực để đưa ra các chủ trương tận dụng, nhận thức rõ các tác động tiêu cực, từ đó chủ động ứng phó, phòng tránh. Các cơ quan truyền thông, đặc biệt là các cơ quan thông tin quân sự tại các cơ quan, đơn vị, viện nghiên cứu, học viện nhà trường KTQS… cần nhanh chóng triển khai các chuyên mục, các công trình nghiên cứu toàn diện, khoa học CĐS và những tác động của nó đến chất lượng đội ngũ cán bộ KTQS.
Hai là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Theo đó, mỗi cơ quan, đơn vị KTQS cần quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm đủ về số lượng, chất lượng, có cơ cấu, độ tuổi, chuyên ngành hợp lý, đồng thời chuẩn hóa từng chức danh theo tiêu chuẩn của Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng cũng như các Tổng cục trực thuộc. Thực hiện tốt công tác tạo nguồn, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ và phát huy khả năng của đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các kỹ sư tài năng trên các lĩnh vực; chú trọng bồi dưỡng rèn luyện phương pháp, tác phong công tác, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tư duy sáng tạo, khả năng nghiên cứu khoa học, trình độ ngoại ngữ, công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, phải thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng về kỹ năng, phương pháp nghiên cứu khoa học, kỹ năng mềm cho đội ngũ cán bộ KTQS. Đồng thời, tạo môi trường làm việc chính quy, kỷ luật cao, đoàn kết, khơi dậy tài năng, sự sáng tạo, tâm huyết nghề nghiệp. Thường xuyên có kế hoạch cho cán bộ KTQS đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm ở các đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là các đơn vị đi đầu trong thực hiện CĐS để tăng cường kiến thức thực tiễn và kỹ năng công tác.
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cán bộ kỹ thuật quân sự trong hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Người cán bộ KTQS phải đề cao tính tự giác trong rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức; thể hiện ở tinh thần phấn đấu vươn lên, cầu tiến, không thỏa mãn, buông lỏng, dao động trong nhận thức. Quá trình này diễn ra thiết thực nhất khi người cán bộ kỹ thuật xác định mục tiêu học tập suốt đời, vừa bồi đắp chuyên môn, vừa củng cố bản lĩnh, phẩm chất chính trị.
Mặt khác, nâng cao ý thức tự giác rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức còn được tiến hành thông qua xây dựng động cơ nghề nghiệp KTQS đúng đắn cho người cán bộ. Đây là biện pháp quan trọng nhằm xác lập và khẳng định vai trò của động lực chính trị - tinh thần. Động cơ đó được biểu hiện ở sự hứng thú, lý tưởng cống hiến cho hoạt động khoa học KTQS./.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật (2019). Nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ Tổng cục Kỹ thuật, nhất là cán bộ chỉ huy quản lý cấp Tổng cục, cấp Cục và tương đương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, số 1095-NQ/ĐU, ngày 25/7/2019, Hà Nội.
2. Đảng ủy Học viện Kỹ thuật Quân sự (2020). Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Học viện khóa IX tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện lần thứ X, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
3. Nguyễn Trọng Luật (2022). Chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật quân sự trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.
Ngày nhận bài: 12/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 29/5/2025; Ngày duyệt đăng: 09/6/2025 |