Phân tích lợi thế nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2001-2023 thông qua Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ

Nghiên cứu nhằm lượng hóa mức độ thay đổi đó thông qua Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ (RCA) của 6 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm: gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cao su và chè.

ThS. Bùi Hồng Trang

Khoa Kinh tế, Học viện Ngân hàng

Email: trangbh@hvnh.edu.vn

Tóm tắt

Trong bối cảnh chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu chịu sức ép kép từ biến đổi khí hậu và các tiêu chuẩn xanh ngày càng khắt khe, lợi thế so sánh truyền thống về các mặt hàng nông sản của Việt Nam dựa vào chi phí thấp và sản lượng lớn, đang đứng trước nguy cơ suy giảm. Nghiên cứu nhằm lượng hóa mức độ thay đổi đó thông qua Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ (RCA) của 6 mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm: gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cao su và chè. Sử dụng dữ liệu thương mại hàng năm giai đoạn 2001-2023 từ UN Comtrade và Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), nghiên cứu tính toán RCA và phân tích xu hướng theo thời gian cũng như giữa các mặt hàng. Kết quả cho thấy, tất cả 6 sản phẩm vẫn giữ RCA > 1, khẳng định lợi thế so sánh tồn tại nhưng biên lợi thế phân hóa: hạt điều và hồ tiêu vẫn dẫn đầu song suy giảm sau năm 2010; gạo, cà phê và cao su giảm mạnh xuống mức một chữ số sau năm 2015; chè duy trì RCA thấp nhưng ổn định nhờ định vị thị trường ngách. Những phát hiện này hàm ý rằng, lợi thế so sánh “tĩnh” đang mỏng đi và phải được chuyển hóa thành lợi thế cạnh tranh “động”. Nghiên cứu đề xuất 4 trụ cột chính sách gồm: nâng cấp hậu cần lạnh, đẩy mạnh chế biến sâu, chuẩn hóa sản xuất bền vững và tăng cường thương hiệu số, nhằm phục hồi và mở rộng lợi thế cạnh tranh nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển đổi xanh toàn cầu.

Từ khoá: Lợi thế so sánh, RCA, xuất khẩu nông sản, Việt Nam

Summary

In the context of global agricultural supply chains facing dual pressures from climate change and increasingly stringent green standards, Viet Nam’s traditional comparative advantage in agricultural commodities, based on low costs and large volumes, is at risk of erosion. This study quantifies the extent of such changes through the Revealed Comparative Advantage (RCA) index of six major export commodities: rice, coffee, pepper, cashew nuts, rubber, and tea. Using annual trade data for the period 2001-2023 from UN Comtrade and the General Statistics Office (now the Statistics Office), the study calculates RCA and analyzes both temporal trends and cross-commodity comparisons. The results show that all six products maintain RCA > 1, confirming the existence of comparative advantage, yet the degree of advantage diverges: cashew nuts and pepper remain leading but have declined since 2010; rice, coffee, and rubber sharply dropped to single-digit levels after 2015; tea sustains a low but stable RCA due to niche market positioning. These findings imply that “static” comparative advantage is thinning and must be transformed into “dynamic” competitive advantage. The study proposes four policy pillars: upgrading cold chain logistics, promoting deep processing, standardizing sustainable production, and strengthening digital branding, to restore and expand Viet Nam’s agricultural competitiveness amid deeper integration and global green transition.

Keywords: Comparative advantage, RCA, agricultural exports, Vietnam

GIỚI THIỆU

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), nông sản hiện chiếm khoảng 15%-17% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong đó có những mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD mỗi năm, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và cán cân thương mại. Trong bức tranh tổng thể của xuất khẩu nông sản, nhóm 6 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm: lúa gạo, hồ tiêu, điều, cao su, cà phê và chè nổi lên như những sản phẩm có vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế. Những mặt hàng này không chỉ khẳng định thương hiệu Việt Nam trên bản đồ nông sản thế giới mà còn có độ lan tỏa cao về kinh tế - xã hội khi gắn liền với hàng triệu hộ nông dân ở các vùng chuyên canh từ Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long tới miền núi phía Bắc.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xuất khẩu nông sản Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức. Vì vậy, việc phân tích chỉ số RCA của từng mặt hàng nêu trên giai đoạn 2001-2023 theo dữ liệu thương mại quốc tế, nhằm xác định mức độ lợi thế so sánh của Việt Nam so với thế giới, cũng như xu hướng thay đổi lợi thế so sánh theo thời gian, giúp nhận diện sự bền vững hoặc suy giảm trong lợi thế của từng ngành hàng, là cơ sở hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp xuất khẩu một cách hiệu quả, thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng của thị trường quốc tế.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

Về lợi thế so sánh và chỉ số RCA

Lợi thế so sánh là lý thuyết nền tảng của thương mại quốc tế, do Ricardo (1817) đề xuất, giải thích lý do các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà họ có chi phí cơ hội thấp hơn so với các quốc gia khác. Trên cơ sở lý luận này, Balassa (1965) đã phát triển chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ (Revealed Comparative Advantage - RCA), nhằm đánh giá khả năng cạnh tranh của một quốc gia đối với một mặt hàng cụ thể thông qua số liệu thương mại. Chỉ số RCA giúp phản ánh mức độ chuyên môn hóa trong xuất khẩu của quốc gia so với mức trung bình toàn cầu, qua đó chỉ ra sản phẩm nào quốc gia có lợi thế xuất khẩu.

Nghiên cứu quốc tế về ứng dụng chỉ số RCA trong thương mại nông sản

Trong các nghiên cứu quốc tế, RCA được sử dụng rộng rãi nhằm phân tích năng lực cạnh tranh thương mại, đặc biệt là với nông sản. Các nghiên cứu tiêu biểu đã chỉ ra rằng, lợi thế so sánh có thể biến động mạnh theo thời gian do sự tác động của các yếu tố như biến đổi khí hậu, thay đổi cầu thị trường quốc tế và các yếu tố nội tại trong nước (Dellink và cộng sự, 2017; Hoang, 2020).

Các nghiên cứu quốc tế sử dụng RCA trong phân tích thương mại đã tập trung vào đánh giá lợi thế so sánh của nhiều ngành hàng khác nhau, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp và phân tích tác động của các yếu tố vĩ mô như tỷ giá, chi phí lao động, biến đổi khí hậu (Adigwe, 2022; Jagdambe, 2019; Nabi và Kaur, 2019; Sidharth Shankar và cộng sự, 2023) .

Ngoài ra, một số nghiên cứu đã đưa ra các biến thể cải tiến của chỉ số RCA nhằm giảm các sai lệch về kích cỡ thị trường và sự bất đối xứng trong đo lường lợi thế so sánh (Brakman và Van Marrewijk, 2017; Danna-Buitrago và Stellian, 2022).

Các nghiên cứu tại Việt Nam về lợi thế so sánh biểu hiện của các mặt hàng nông sản

Ở Việt Nam, RCA được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu để xác định các sản phẩm có lợi thế xuất khẩu, làm cơ sở hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của các mặt hàng nông sản.

Theo Nguyen và Lee (2020), RCA của các sản phẩm trái cây Việt Nam, như dừa, điều, thanh long rất cao (RCA > 19), gấp 2,7 lần so với Ấn Độ, cho thấy tiềm năng lớn về xuất khẩu trái cây và cơ hội để Việt Nam tiếp tục mở rộng thị trường quốc tế trong lĩnh vực này.

Trong một nghiên cứu khác, Nguyen (2022) sử dụng mô hình trọng lực biên ngẫu nhiên phân tích các yếu tố tác động tới RCA của 2 sản phẩm chủ lực là gạo và cà phê. Kết quả cho thấy, Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để tăng trưởng xuất khẩu 2 mặt hàng này nếu các rào cản phi thuế quan được cải thiện.

Huỳnh Ngọc Chương và cộng sự (2021) khi phân tích RCA các mặt hàng nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cho rằng cấu trúc xuất khẩu nông sản hiện tại của Việt Nam còn khá tập trung vào một số ít thị trường, do đó cần đa dạng hóa thị trường để tận dụng tốt hơn lợi thế so sánh, đặc biệt khi tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.

Phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu về 6 sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam gồm: lúa gạo, hồ tiêu, điều, cao su, cà phê và chè. Danh mục này được xác định theo thống kê chính thức của Tổng cục Thống kê. Phạm vi thời gian nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2001-2023, nhằm đảm bảo đủ độ dài chuỗi dữ liệu cho việc tính toán và phân tích xu hướng lợi thế so sánh theo thời gian.

Dữ liệu về kim ngạch xuất khẩu được thu thập từ các nguồn dữ liệu đáng tin cậy bao gồm: Cơ sở dữ liệu thương mại quốc tế (UN Comtrade) và Tổng cục Thống kê.

Phương pháp tính toán RCA

Chỉ số lợi thế so sánh biểu hiện (Revealed Comparative Advantage - RCA) được tính toán Chỉ số RCA được tính theo công thức sau (Balassa, 1965):

RCAij = (Xij/Xit)/(Xwj/Xwt)

Trong đó:

- Xij: giá trị xuất khẩu sản phẩm j của quốc gia i

- Xit: tổng giá trị xuất khẩu tất cả sản phẩm của quốc gia i.

- Xwj: tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm j trên toàn thế giới.

- Xwt: tổng giá trị xuất khẩu tất cả các sản phẩm trên toàn thế giới.

Nếu RCA > 1, Việt Nam được coi là có lợi thế so sánh trong mặt hàng j; ngược lại, nếu RCA

Quy trình xử lý dữ liệu và tính toán RCA

(i) Thu thập dữ liệu: Dữ liệu xuất khẩu theo mã HS 4 số cho từng mặt hàng nông sản được thu thập từ UN Comtrade và đối chiếu với dữ liệu trong nước từ Tổng cục Thống kê.

(ii) Chuẩn hóa dữ liệu: Đảm bảo đồng nhất về đơn vị tính, mã hóa sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế để tránh trùng lắp hoặc thiếu sót dữ liệu.

(iii) Tính toán RCA: Áp dụng công thức Balassa (1965) để tính RCA hàng năm cho từng mặt hàng trong giai đoạn 2001-2023.

(iv) Phân tích xu hướng RCA theo thời gian: Đánh giá sự thay đổi lợi thế so sánh qua các giai đoạn nhằm phát hiện xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định.

(v) So sánh giữa các sản phẩm và thị trường: So sánh mức RCA giữa các mặt hàng để xác định sản phẩm có lợi thế vượt trội và tiềm năng cần phát huy. Đồng thời phân tích RCA theo từng thị trường xuất khẩu trọng điểm.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam

Trong giai đoạn 2010-2023, xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam duy trì đà tăng trưởng, song mỗi mặt hàng thể hiện xu hướng khác biệt về khối lượng và giá trị.

Về khối lượng, gạo vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với trên 8 triệu tấn vào năm 2023, ổn định quanh ngưỡng 6-7 triệu tấn suốt giai đoạn nghiên cứu, ngoại trừ cú sụt giảm sâu năm 2016 xuống còn 4,5 triệu tấn do ảnh hưởng của hiện tượng El Niño. Cao su ghi nhận mức tăng trưởng đều đặn, tăng gấp khoảng 2,2 lần so với năm 2010 nhờ mở rộng diện tích tại Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Khối lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 2010-2023 tăng trưởng ban đầu, sau đó chững lại và phục hồi (từ khoảng 1 triệu tấn năm 2010 tăng lên trên 1,5 triệu tấn năm 2014, rồi ổn định quanh mức này đến 2018; giai đoạn 2019-2021 ghi nhận giảm nhẹ, trước khi phục hồi và vượt 1,6 triệu tấn vào 2022-2023. Diễn biến này phản ánh năng lực sản xuất ổn định nhưng vẫn chịu tác động của khí hậu và biến động thị trường quốc tế). Xu hướng tương tự thể hiện ở khối lượng xuất khẩu chè. Khối lượng xuất khẩu điều nhân và hồ tiêu có xu hướng tăng ổn định, ngoại trừ cú tăng đột biến năm 2015 của điều nhân.

Về giá trị và đơn giá xuất khẩu: Cao su chứng kiến mức giảm sâu khoảng 57% giai đoạn 2015-2016 do tác động từ xu hướng xuất khẩu thô và tỷ trọng sản phẩm cao su kỹ thuật còn thấp. Ngược lại, điều nhân, cà phê và hạt tiêu có đơn giá xuất khẩu tăng nhờ đẩy mạnh chế biến sâu và nhu cầu ổn định từ các thị trường Mỹ và châu Âu (EU), dù giá vẫn biến động mạnh, đặc biệt với hạt tiêu. Gạo và chè có giá trị xuất khẩu tương đối ổn định, phản ánh nhu cầu tiêu dùng ổn định, đặc biệt là gạo thuộc nhóm mặt hàng thiết yếu trong tiêu dùng (Hình 1).

Hình 1: Khối lượng và giá trị xuất khẩu của 6 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2010-2023

Phân tích lợi thế nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2001-2023 thông qua Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê (2010-2023)

Về cấu trúc thị trường, theo số liệu từ UNComtrade, xuất khẩu nông sản Việt Nam tập trung vào các thị trường trọng điểm: Trung Quốc với cao su (chiếm 31% giá trị xuất khẩu năm 2023); Phillipines với gạo (chiếm 40% giá trị xuất khẩu năm 2023); Pakistan với chè (chiếm 44% giá trị xuất khẩu năm 2023) (Hình 2). Như vậy, xuất khẩu vẫn tiềm ẩn rủi ro khi phụ thuộc lớn vào một số thị trường.

Hình 2: Thị trường xuất khẩu chính của 6 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2023

Phân tích lợi thế nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2001-2023 thông qua Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ

Nguồn: Tính toán từ số liệu UNComtrade

Lưu ý đặc biệt đối với xuất khẩu điều. Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam gần như tập trung tuyệt đối vào mã HS 080132 (hạt điều đã tách vỏ), chiếm khoảng 99% kim ngạch (xấp xỉ 2,7 tỉ USD năm 2023 theo tính toán từ số liệu của UNComtrade). Hai mã còn lại là 080131 (hạt điều còn vỏ) và 20081910 (hạt điều rang, tẩm) đóng góp dưới 1%. Sự thống trị của HS 080132 xuất phát từ: (i) công suất chế biến trong nước vượt 1 triệu tấn/năm, (ii) giá trị FOB của nhân điều gấp 2-3 lần điều thô, (iii) nhu cầu ổn định của các thị trường lớn (Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc) đối với sản phẩm đã bóc vỏ, (iv) thuế suất 0% nhờ các FTA, (v) mô hình “nhập thô - xuất tinh” giúp Việt Nam tối ưu chi phí và công nghệ, khiến xuất khẩu điều thô chỉ còn mang tính bổ trợ hoặc tái xuất.

Năng lực chế biến hạt điều của Việt Nam đã vượt xa khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước. Năm 2024, diện tích điều chỉ còn khoảng 305.000  ha với sản lượng ước tính 370.000  tấn, đáp ứng chưa đến 12% nhu cầu của các nhà máy (tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê). Phần còn lại được bù đắp bằng khối lượng hạt điều thô nhập khẩu khổng lồ.

Kết quả tính toán RCA

Hình 3 cho thấy, RCA của 6 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2001-2023 đều duy trì mức RCA > 1.

Hình 3: Kết quả tính RCA của 6 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2001-2023

Phân tích lợi thế nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2001-2023 thông qua Chỉ số lợi thế so sánh bộc lộ

Nguồn: Tính toán từ số liệu UNComtrade

Nhóm RCA tương đối cao

- Hạt điều vượt trội toàn giai đoạn, đạt đỉnh xấp xỉ 95 vào năm 2004-2005, giảm dần còn xấp xỉ 30 vào năm 2018, nhưng bật trở lại sấp sỉ 45 vào năm 2023. Điều này phản ánh năng lực chế biến vẫn được giữ nhưng chịu sức ép cạnh tranh nguồn cung thô và chi phí chế biến.

- Hồ tiêu giữ mức 40-45 vào đầu những năm 2000, co dần xuống khoảng 10-12 giai đoạn 2019-2023, song vẫn cao hơn các mặt hàng khác nhờ sản lượng dẫn đầu thế giới.

- Gạo đứng trong nhóm cao (xấp xỉ 40) trước 2007 nhưng trượt dần về dưới 10 sau năm 2015 do phải cạnh tranh với Thái Lan, Ấn Độ và cấu trúc sản phẩm thiên về gạo cấp trung.

Nhóm RCA trung bình - thấp

- Cà phê khởi đầu quanh 20-25, giảm liên tục còn khoảng 3-6 kể từ 2016, phản ánh quá trình đa dạng hóa xuất khẩu của các nước đối thủ và sự dịch chuyển trong cơ cấu hàng chế biến sâu.

- Cao su suy giảm sớm: từ 22 xuống dưới 5 sau năm 2010 và chỉ nhích nhẹ gần đây, cho thấy sự phụ thuộc mạnh vào xuất thô và thị trường xuất khẩu chính.

- Chè luôn duy trì RCA thấp nhất (khoảng 5-8 đầu kỳ, còn xấp xỉ 2 giai đoạn gần đây), do sản lượng nhỏ và thị phần đặc sản giàu giá trị gia tăng nhưng quy mô hạn chế.

Xu hướng động

- Giảm rõ rệt: Cà phê, cao su, gạo, hồ tiêu đều thể hiện quỹ đạo giảm gần như tuyến tính, chứng tỏ lợi thế so sánh đang mòn dần dưới sức ép cạnh tranh và yêu cầu chất lượng.

- Ổn định thấp: Chè gần như đi ngang ở mức RCA thấp, phản ánh thị phần ngách ổn định nhưng khó bứt phá.

- Giảm rồi hồi phục: Hạt điều hạ dốc mạnh sau năm 2010 nhưng phục hồi đáng kể năm 2023 nhờ nâng cấp chế biến và mở rộng thị trường cao cấp.

Tóm lại, lợi thế so sánh của nông sản Việt Nam vẫn khá bền vững song đang bị thu hẹp, đặc biệt là với nhóm nông sản thô (cao su, gạo, cà phê). Để duy trì RCA, cần thúc đẩy chế biến sâu, đa dạng hóa thị trường và nâng chuẩn chất lượng, đặc biệt là cho các mặt hàng đang suy giảm nhanh, đồng thời tiếp tục củng cố vị thế dẫn đầu của điều và hồ tiêu thông qua đổi mới công nghệ và chiến lược thương hiệu.

KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ số RCA của 6 mặt hàng nông sản chủ lực vẫn duy trì trên ngưỡng 1, nhưng biên độ giảm dần trong 2 thập niên qua đối với cà phê, cao su và gạo; trong khi điều và hồ tiêu tuy vẫn dẫn đầu nhưng xu hướng suy giảm đòi hỏi cải tổ chuỗi giá trị. Chè giữ lợi thế thấp nhưng ổn định, phù hợp chiến lược thị trường ngách. Đây là một tín hiệu cảnh báo rằng, lợi thế so sánh “thô” của Việt Nam đang bị bào mòn bởi cạnh tranh quốc tế, áp lực tiêu chuẩn xanh và biến đổi khí hậu.

Một số hàm ý chính sách

Kết quả nghiên cứu cho thấy, lợi thế so sánh “tĩnh” dựa vào sản lượng và chi phí thấp không còn đủ; thay vào đó, cần chuyển sang lợi thế “động” dựa trên công nghệ, bền vững và thương hiệu. Để bảo vệ và tái tạo lợi thế, tác giả đề xuất 4 trụ cột chính sách cần được triển khai sâu và đồng bộ hơn, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tái cấu trúc chuỗi giá trị thông qua đầu tư công nghệ sau thu hoạch và logistics lạnh. Hiện tượng mất mát 10%-15% sau thu hoạch không chỉ kéo giảm thu nhập nông hộ mà còn làm giảm quy mô xuất khẩu ròng, từ đó làm suy yếu RCA. Các nghiên cứu về hiệu quả chuỗi lạnh chỉ ra rằng đầu tư vào kho lạnh và xe container kiểm soát nhiệt độ có thể cắt giảm hao hụt một nửa, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản lên 2-3 lần. Đối với cà phê, hồ tiêu và điều - những mặt hàng có giá trị đơn giá cao - việc duy trì chất lượng nguyên liệu trước khi vào khâu chế biến có tác động tuyến tính tới giá trị xuất khẩu. Vì vậy, Chính phủ nên ban hành gói tín dụng ưu đãi lãi suất thấp cho doanh nghiệp đầu tư kho lạnh khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; song hành, hình thành các “cụm logistics chia sẻ” (shared logistics hub) - nơi doanh nghiệp lớn cho thuê chỗ kho, xe lạnh cho hợp tác xã nhỏ - để giảm chi phí bình quân. Chính sách thuế nhập khẩu 0% cho thiết bị sơ chế, máy sấy tầng sôi, silo bảo quản áp suất thấp, sẽ khuyến khích chuyển dịch nhanh sang công nghệ sau thu hoạch tiên tiến.

Thứ hai, đa dạng hóa sản phẩm và thị trường dựa trên chế biến sâu. RCA của gạo, cao su và cà phê giảm chủ yếu do mô hình xuất thô, biên lợi nhuận thấp và dễ bị cạnh tranh giá. Chế biến sâu là chìa khóa dịch chuyển chuỗi giá trị: cà phê rang xay, cà phê hòa tan và “ready‑to‑drink” mang lại giá trị gia tăng gấp 2-3 lần so với hạt nhân; gạo hữu cơ thương phẩm có thể đạt giá FOB cao hơn 30% so với gạo trắng truyền thống; hạt điều phủ chocolate mở rộng thị trường quà tặng cao cấp tại thị trường EU. Để hiện thực hóa, cần thiết lập quỹ đổi mới sáng tạo nông sản cho dự án sản phẩm chế biến sâu. Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần phối hợp để xúc tiến thương mại ở các thị trường mới.

Thứ ba, phát triển nông nghiệp bền vững với hàm lượng carbon thấp như một lợi thế cạnh tranh mới. EU đang áp dụng Cơ chế điều chỉnh carbon biên giới (CBAM) thử nghiệm và nhiều nhà nhập khẩu thực phẩm đặt mục tiêu phát thải ròng bằng không (net‑zero) vào năm 2030-2040. Việc chuẩn hóa VietGAP/GlobalGAP cho toàn bộ chuỗi cung ứng cà phê, hồ tiêu, gạo sẽ không chỉ giảm rủi ro rào cản kỹ thuật mà còn gia tăng khả năng có được hợp đồng dài hạn. Cùng với đó, Việt Nam cần phát triển cơ sở hạ tầng dữ liệu carbon: mỗi lô hàng xuất khẩu đi kèm mã QR dẫn đến “hộ chiếu sản phẩm” nêu rõ phát thải CO₂eq, lượng nước sử dụng và biện pháp tái chế phụ phẩm. Lợi ích đạt được là doanh nghiệp có thể bán tín chỉ carbon nhờ tái canh cà phê giống TR9 giảm phát thải nitrous oxide (N₂O) hoặc sản xuất biochar từ vỏ điều, còn nông hộ được hưởng chia sẻ giá trị. Đây là đòn bẩy giúp RCA giữ vững khi giá trung bình đơn vị tăng nhờ yếu tố xanh.

Thứ tư, củng cố thương hiệu quốc gia và xúc tiến số. Việt Nam cần xây dựng một chiến lược thương hiệu nhất quán cho nông sản, bảo đảm thông điệp về chất lượng, an toàn và bền vững được truyền tải đồng bộ trên mọi kênh. Trọng tâm là mở rộng hiện diện trên các nền tảng số, nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc và tăng cường hoạt động marketing trực tuyến, qua đó gia tăng mức độ nhận diện và giá trị cảm nhận của sản phẩm trong mắt người tiêu dùng toàn cầu.

Tổng hòa 4 trụ cột này sẽ tạo ra hiệu ứng cộng hưởng. Hao hụt chuỗi cung ứng giảm, giá trị gia tăng tăng, rào cản kỹ thuật được vượt qua và thương hiệu mạnh sẽ nâng trần giá bán. Từ đó, chỉ số RCA của các mặt hàng đang suy giảm (gạo, cà phê, cao su) có cơ hội phục hồi; còn điều và hồ tiêu có thể chuyển từ lợi thế so sánh tĩnh sang lợi thế động, gia tăng biên lợi nhuận bền vững. Quan trọng hơn, chiến lược này phù hợp lộ trình chuyển đổi xanh và cam kết phát thải ròng bằng 0 năm 2050 của Việt Nam, bảo đảm nông sản Việt Nam duy trì vị thế cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu thời kỳ hậu carbon.

Tài liệu tham khảo:

1. Adigwe, E.O. (2022). A Comparative Analysis of Competitive Trade in a Cluster Market of the European Union: The Revealed Comparative Advantage (RCA) Index, Naše Gospodarstvo/Our Economy, Walter de Gruyter GmbH, 68(1), 14-24.

2. Balassa, B. (1965). Trade Liberalisation and ‘Revealed’ Comparative Advantage, The Manchester School, 33(2), 99-123.

3. Brakman, S. and Van Marrewijk, C. (2017). A closer look at revealed comparative advantage: Gross‐versus value‐added trade flows, Papers in Regional Science, Elsevier, 96(1), 61-93.

4. Danna-Buitrago, J.P. and Stellian, R. (2022). A New Class of Revealed Comparative Advantage Indexes, Open Economies Review, Springer, 33(3), 477-503, doi: 10.1007/S11079-021-09636-4/TABLES/4.

5. Dellink, R., Hwang, H., Lanzi, E. and Chateau, J. (2017). International Trade Consequences of Climate Change, No. 01, OECD Trade and Environment Working Papers, doi: 10.1787/9f446180-en.

6. Hoang, V. Van. (2020). Investigating the agricultural competitiveness of ASEAN countries, Journal of Economic Studies, Emerald Group Holdings Ltd., 47(2), 307-332, doi: 10.1108/JES-10-2018-0366.

7. Huỳnh Ngọc Chương, Đinh Thị Nguyệt Ánh, Nguyễn Thị Phương, Trần Cao Quý, Nguyễn Quang Vinh and Bùi Minh Hằng (2021). Lợi thế so sánh và cấu trúc xuất khẩu nông sản của Việt Nam dưới bối cảnh hội nhập thương mại quốc tế, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ - Kinh tế - Luật và Quản lý, 5(3).

8. Jagdambe, S. (2019). Consistency Test of Revealed Comparative Advantage Index: Evidence from India’s Agricultural Export, Foreign Trade Review, 54(1), 16-28.

9. Nabi, T. and Kaur, T.P. (2019). Export specialization of India with top five agricultural economies: An application of RCA and RSCA, International Journal of Innovative Technology and Exploring Engineering, Blue Eyes Intelligence Engineering and Sciences Publication, 8(12), 4705-4708, doi: 10.35940/ijitee.L3586.1081219.

10. Nguyen, D.D. (2022). Determinants of Vietnam’s rice and coffee exports: using stochastic frontier gravity model, Journal of Asian Business and Economic Studies, 29(1), 19-34, doi: 10.1108/JABES-05-2020-0054.

11. Nguyen, T.S. and B. H. Lee. (2020). Analyses of the Potential Capabilities and Factors Affecting Vietnamese Fruit Exports, Journal of Agriculture, Life and Environment Sciences. https://doi.org/10.22698/jales.20200021.

12. Ricardo, D. (1817). On the principles of political economy and taxation. In: SRAFFA, P. (ed.) The works and correspondence of David Ricardo, Vol.1. Cambridge, UK: Cambridge University Press.

12. Sidharth Shankar, Govind Kumar, Abhishek Singh and Pradeep K Mishra. (2023). RCA and its application to evaluate India’s performance of fresh mangoes, mangosteen and guavas during the period 1991-2020: An analysis with respect to trade, Journal of Contemporary Issues in Business and Government, 29(1).

Ngày nhận bài: 10/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/8/2025; Ngày duyệt đăng: 24/8/2025