Trần Mai Phương (Tác giả liên hệ)
Email: tranmaiphuong.cs2@ftu.edu.vn
Nguyễn Thị Thu Hà, Trần Phan Thảo Vy, Nguyễn Thị Thanh Dung,
Trương Minh Châu, Nguyễn Hạ Liên Chi
Trường Đại học Ngoại thương Cơ sở II tại TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Tình trạng mất an ninh lương thực là một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực châu Á - nơi có gần một nửa số người đang phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực, đói nghèo và suy dinh dưỡng. Trong bối cảnh đó, dựa trên dữ liệu bảng giai đoạn 2000-2023 của 34 quốc gia châu Á, nghiên cứu này tập trung vào phân tích tác động của độ mở thương mại đối với an ninh lương thực bằng cách sử dụng phương pháp phương pháp Moment tổng quát (GMM). Kết quả cho thấy, Độ mở thương mại, Phát triển kinh tế, Tiến bộ trong lĩnh vực nông nghiệp và Mật độ dân số nông thôn có ảnh hưởng tích cực đáng kể, trong khi Thiên tai có tác động tiêu cực, còn Tăng trưởng dân số thì không thể hiện tác động rõ rệt đến An toàn lương thực. Từ đó, nghiên cứu cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách cái nhìn sâu sắc hơn về an ninh lương thực tại các quốc gia châu Á.
Từ khóa: Độ mở thương mại, an ninh lương thực, các quốc gia châu Á
Summary
Food insecurity is a global issue affecting many regions worldwide, particularly in Asia, where nearly half of the population faces food insecurity, poverty, and malnutrition. In this context, based on panel data from 34 Asian countries over the period 2000-2023, this study analyzes the impact of trade openness on food security using the Generalized Method of Moments (GMM). The results reveal that trade openness, economic development, agricultural progress, and rural population density exert significant positive effects, while natural disasters have a negative impact, and population growth shows no clear effect on food security. Accordingly, the study provides policymakers with deeper insights into food security in Asian countries.
Keywords: Trade openness, food security, Asian countries
GIỚI THIỆU
Tại châu Á, do chi phí sản xuất tăng cao (Rajakaruna, 2024), đi cùng với những thách thức về khí hậu, làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, như lũ lụt và hạn hán, từ đó làm giảm năng suất nông nghiệp, dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực lan rộng (Cullis và Bogale, 2024). Mặc dù mùa màng bội thu ở một số vùng, đặc biệt là các vùng sản xuất lúa gạo, đã tạm thời ổn định giá lương thực, nhưng sự ổn định này vẫn còn mong manh và phân bố không đều trên khắp lục địa.
Mất an ninh lương thực để lại những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến phúc lợi con người, giáo dục và tăng trưởng kinh tế nói chung. Vì vậy, vấn đề này thu hút sự quan tâm từ nhiều nghiên cứu trên thế giới. Dù vậy, các nghiên cứu phần lớn tập trung ở Liên minh châu Âu (EU), châu Phi cận Sahara và Mỹ Latinh, trong khi đó, số lượng nghiên cứu cho khu vực châu Á còn hạn chế (Théodore và Wonyra, 2023). Do đó, nghiên cứu này tập trung vào các quốc gia châu Á, đặc biệt tập trung vào các nền kinh tế đang phát triển ở Trung Á giai đoạn 2001-2022. Ngoài ra, biện pháp để khắc phục hiện tượng này cũng là vấn đề cần quan tâm. Trong ngắn hạn, các hỗ trợ nhân đạo sẽ được thực hiện. Trong dài hạn, một số giải pháp có thể là tăng năng suất nông nghiệp (Mozumdar L., 2012), tăng độ mở thương mại qua ký kết hiệp định thương mại tự do (Fathelrahman và cộng sự, 2021) và nhập khẩu lương thực (Zotikov và cộng sự, 2021). Vì vậy, nghiên cứu này tập trung vào ảnh hưởng của độ mở thương mại, chính sách thương mại và các yếu tố kinh tế đến an ninh lương thực bằng cách sử dụng mô hình dữ liệu bảng với hiệu ứng cố định và phương pháp GMM (Generalized Method of Moments).
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Độ mở thương mại và an ninh lương thực
Nhìn chung, khái niệm độ mở thương mại đã thay đổi nhiều theo thời gian. Squalli và Wilson (2011) cho rằng, độ mở thương mại xem xét trên 2 khía cạnh: Tỷ lệ thu nhập mà các quốc gia thu được từ thương mại quốc tế (thuế quan) và Mức độ kết nối với nền kinh tế toàn cầu (toàn cầu hóa). Hai khía cạnh này rất quan trọng vì chúng phản ánh dòng chảy thương mại thực tế, không chỉ dựa trên chính sách tự do thương mại, mà còn tính đến các yếu tố kinh tế - xã hội, khu vực và nhân khẩu học. Chỉ số đo lường độ mở thương mại thường được tính theo tỷ lệ thương mại (xuất khẩu và nhập khẩu) so với GDP.
An ninh lương thực (FS) thường được định nghĩa dựa trên số lượng và chất lượng dinh dưỡng của nguồn cung thực phẩm, được đo lường thông qua 2 chỉ số: protein trung bình được cung cấp (tính theo gam/người/ngày) và năng lượng được cung cấp trong chế độ ăn (tính bằng phần trăm so với nhu cầu năng lượng trung bình của mỗi quốc gia). Hai chỉ số này cho biết cả về số lượng lẫn chất lượng dinh dưỡng của nguồn cung thực phẩm (Fusco và cộng sự, 2020).
Các yếu tố ảnh hưởng đến tác động của độ mở thương mại đối với an ninh lương thực có thể khác nhau, bởi vì an ninh lương thực liên quan đến 4 trụ cột: sự sẵn có, khả năng tiếp cận, khả năng sử dụng và tính ổn định (Sun và Zhang, 2021). Chính vì vậy, rất khó để xác định tác động tích cực hay tiêu cực của độ mở thương mại đến an ninh lương thực chỉ bằng phân tích định tính và mô tả, như cách làm của phần lớn các nghiên cứu trước đây (Fanelli, 2019). Bên cạnh đó, hầu hết các nghiên cứu về độ mở thương mại chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế thay vì trực tiếp phân tích an ninh lương thực. Mặc dù nhiều nghiên cứu cho thấy tác động tiêu cực của thương mại mở đối với an ninh lương thực, một số nghiên cứu lại chỉ ra kết quả tích cực (Fusco và cộng sự, 2020).
Tuy nhiên, trong một số bối cảnh nghiên cứu khác, độ mở thương mại có thể ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực do tính cứng nhắc về cơ cấu (McCorriston và cộng sự, 2013). Ngoài ra, độ mở thương mại và an ninh lương thực cũng có thể chỉ có mối liên hệ gián tiếp và không quá chặt chẽ (Sun và Zhang, 2021). Sự khác biệt trong các nghiên cứu về tác động của độ mở thương mại đến an ninh lương thực có thể là do phạm vi quan sát khác nhau giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển.
Các yếu tố khác góp phần thay đổi an ninh lương thực
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét 4 nhóm yếu tố quyết định an ninh lương thực. Nhóm thứ nhất gồm nguồn lực kinh tế tổng thể, mức độ sẵn có của nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp, và tầm quan trọng của nông nghiệp (bao gồm dân số nông thôn, diện tích đất canh tác, GDP bình quân đầu người). Nhóm thứ hai bao gồm 3 biến phản ánh sự phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp (năng suất ngũ cốc - kg/ha, theo FAOSTAT), kinh tế (tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người) và nhân khẩu học (tăng trưởng dân số). Nhóm thứ ba gồm lạm phát, được đo lường thông qua tỷ lệ lạm phát chỉ số giá tiêu dùng (CPI), nhằm phản ánh chất lượng của chính sách kinh tế vĩ mô trong nước. Cuối cùng là biến số về thiên tai, được tính toán dựa trên tỷ lệ giữa số dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai so với tổng dân số của mỗi quốc gia, nhằm phản ánh mức độ nghiêm trọng của thiên tai.
Phương pháp nghiên cứu và mô tả dữ liệu
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu bảng của các quốc gia châu Á trong giai đoạn 2000-2023, được trích xuất từ Chỉ số Phát triển Thế giới (World Development Indicators - WB) và Cơ sở dữ liệu thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAOSTAT).
Để xem xét tác động của độ mở thương mại đến an ninh lương thực thông qua mô hình bảng động, nhằm tính đến ảnh hưởng của các biến giải thích theo thời gian cũng như mức độ an ninh lương thực hiện tại phụ thuộc vào mức độ trước đó, chúng tôi dựa theo hàm hồi quy của Fusco và cộng sự (2020) được xây dựng như sau:
FSi,t = α + βFSi,t-1 + γTOi.t + δCVi,t + μi + λt + εi,ti = 1, . . . 33, t = 1. . . 18 (1)
Trong đó: μi, e, và λt là các tham số, lần lượt đại diện cho tác động cố định của quốc gia và tác động cố định theo thời gian; εi,t là sai số ngẫu nhiên.
Độ mở thương mại (TO) được sử dụng để đo lường mức độ mở cửa thương mại của một quốc gia. Để đảm bảo tính bền vững, mô hình xem xét thêm các biến kiểm soát (CV) phản ánh các yếu tố ảnh hưởng đến an ninh lương thực ở cấp quốc gia, bao gồm: GDP bình quân đầu người được sử dụng làm biến chính để đo lường lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng trong lãnh thổ quốc gia; Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng như một biến chỉ ra tầm quan trọng của nông nghiệp, phản ánh tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn trên tổng dân số (Fanelli, 2018). Mức độ sẵn có của tài nguyên cho sản xuất nông nghiệp được đo lường thông qua biến diện tích đất canh tác, bao gồm đất trồng cây ngắn ngày, đất trồng cỏ tạm thời để cắt hoặc chăn thả, đất vườn rau và đất tạm thời bỏ hoang; Chính sách và điều kiện kinh tế vĩ mô trong nước được thể hiện thông qua biến lạm phát, phản ánh chất lượng chính sách vĩ mô; Các yếu tố phi kinh tế được thể hiện thông qua biến thiên tai, được tính bằng tỷ lệ giữa số người bị ảnh hưởng bởi thiên tai và tổng dân số ở mỗi quốc gia.
Nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp Moment tổng quát (GMM) để phân tích dữ liệu bảng động, từ đó phân tích cách thức độ mở thương mại ảnh hưởng đến an ninh lương thực trên nhiều quốc gia khác nhau (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng: Phân tích cách thức độ mở thương mại ảnh hưởng đến an ninh lương thực
Biến |
Năng lượng bình quân được cung cấp trong chế độ ăn (1) |
Năng lượng bình quân được cung cấp trong chế độ ăn (2) |
Năng lượng bình quân được cung cấp trong chế độ ăn (3) |
Protein bình quân được cung cấp (4) |
Protein bình quân được cung cấp (5) |
Protein bình quân được cung cấp (6) |
Độ mở thương mại |
.0046539 (***) |
|
|
.0002671
|
|
|
Thuế quan |
|
.0000318 |
|
|
-.0031179 |
|
Toàn cầu hóa |
|
|
.0028867 (*) |
|
|
-.0009545 |
lnGDP |
-.1301131
|
-.0067905
|
-.083827
|
1.098609 (***) |
1.265817 (***) |
1.119634 (***) |
lnArableLand |
-.0770113 (*) |
-.0717251
|
-.0987031 (**) |
.0228056
|
.1235093 |
.0162635 |
ln(Agriculture Productivity) |
-.0105535
|
-.0914394
|
-.0115671
|
-.2093173
|
-.3912776 |
-.1199111 |
Dân số nông thôn |
.0037354 |
.0068575
|
.0052405
|
.0004486 |
-.0106848
|
-.0026381 |
ln(Population Growth) |
-.2039256 (***) |
-.1193725 |
-.2028129 (***) |
.024772 |
.0528723 |
-.0400222 |
Thiên tai |
-.0133809 |
-.0152651
|
-.0130661
|
.0142686 |
.0119352 |
.0088405 |
ln(Inflation) |
.0640695 |
.0465332
|
.0670678
|
.1850278 |
.1706332 |
.2183472 |
cons_ |
2.328034 (*) |
2.468727 (*) |
2.824971 (**) |
-.7867656 |
1.95539 |
-.6679002 |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả (2025)
Kết quả nghiên cứu ở Bảng cho thấy, các biến về mở cửa thương mại và toàn cầu hóa có tác động đáng kể đến năng lượng bình quân được cung cấp trong chế độ ăn (Average Dietary Energy Supply).
Khi xem xét mối quan hệ giữa năng lượng bình quân được cung cấp trong chế độ ăn và mức độ mở cửa thương mại, kết quả chỉ ra rằng, tồn tại một mối tương quan dương có ý nghĩa thống kê. Do đó, có thể thấy, mở cửa thương mại có mối quan hệ tích cực với an ninh lương thực, qua đó cho thấy tự do hóa thương mại góp phần cải thiện triển vọng về mức độ an ninh lương thực của một quốc gia. Kết quả này cũng được khẳng định và ủng hộ bởi Clapp (2015) tại các quốc gia ở châu Phi cận Sahara, cũng như Fusco và cộng sự (2020) tại các quốc gia EU. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tăng trưởng dân số và protein bình quân được cung cấp lại không có ý nghĩa thống kê tại các quốc gia Trung Á, trong khi tăng trưởng dân số nông thôn lại thể hiện tác động mạnh mẽ hơn đến an ninh lương thực. Kết quả cũng chỉ ra rằng, tăng trưởng GDP có tương quan dương có ý nghĩa thống kê với an ninh lương thực khi xem xét cả 2 chỉ số, cho thấy rằng sự gia tăng GDP góp phần nâng cao mức độ an ninh lương thực, đặc biệt là tại các quốc gia nghèo hơn (Salahodjaev và Mirziyoyeva, 2021). Ở những quốc gia có mức tăng trưởng GDP cao, người dân có điều kiện tiếp cận an ninh lương thực tốt hơn (Świetlik, 2018). Ngoài ra, thuế quan và toàn cầu hóa đều cho thấy mối quan hệ tích cực với an ninh lương thực, nhất quán với kết quả về mức độ mở cửa thương mại.
Ngược lại, một mối quan hệ âm được tìm thấy giữa an ninh lương thực, diện tích đất canh tác và tăng trưởng dân số. Mặc dù việc mở rộng diện tích đất canh tác về mặt lý thuyết có thể thúc đẩy sản xuất, nhưng bằng chứng cho thấy phần lớn đất này thường được chuyển đổi sang các mục đích nông nghiệp phi lương thực như chăn thả gia súc, trồng cây trong vườn hộ gia đình hoặc trồng cây lâu năm thay vì sản xuất cây lương thực chính (Ashraf và cộng sự, 2024). Tăng trưởng dân số tác động tiêu cực đến an ninh lương thực vì quá trình đô thị hóa dẫn đến chế độ ăn phong phú hơn nhưng mất đất canh tác, từ đó tạo áp lực lớn lên hệ thống nông nghiệp do vừa tăng nhu cầu lương thực, vừa gia tăng thách thức trong sản xuất. Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế và các yếu tố phi kinh tế trong việc cải thiện an ninh lương thực.
Mặc dù năng suất nông nghiệp không có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu này, do một số yếu tố như sự phụ thuộc lớn vào thương mại, bất bình đẳng giàu nghèo và cơ sở hạ tầng yếu kém (Sun và Zhang, 2021), song nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong an ninh lương thực. Nhiều quốc gia phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu lương thực làm hạn chế khả năng nâng cao năng suất, dẫn đến mức độ an ninh lương thực thấp hơn (Squires và Gaur, 2020). Ngoài ra, dù thiên tai thể hiện mối tương quan âm với an ninh lương thực nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Bên cạnh đó, dân số nông thôn cũng không có ý nghĩa thống kê trong việc giải thích an ninh lương thực do quá trình đô thị hóa và hội nhập thương mại ngày càng sâu rộng tại các quốc gia châu Á. Tuy nhiên, nếu các quốc gia áp dụng chiến lược kết hợp giữa mở cửa thương mại và cải cách nông nghiệp tại chỗ, dân số nông thôn có thể lấy lại tầm quan trọng trong kết quả về an ninh lương thực (Fathelrahman và cộng sự, 2021).
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý
Dựa trên dữ liệu bảng của 34 quốc gia châu Á giai đoạn 2000-2023, nghiên cứu này đã phân tích tác động của mức độ mở cửa thương mại đến an ninh lương thực. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự cởi mở thương mại có tác động tích cực đến an ninh lương thực ở các quốc gia châu Á. Từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi ý chính sách:
Các quốc gia châu Á nên đồng thời theo đuổi chính sách thương mại tự do và chiến lược phát triển trong nước nhằm đảm bảo cả số lượng và chất lượng nguồn cung lương thực, thông qua việc ổn định chuỗi cung ứng và giảm biến động giá.
Các quốc gia châu Á cần tăng cường quản trị nhà nước và cải cách thể chế, nhằm đảm bảo tăng trưởng bền vững và ổn định về kinh tế - xã hội.
Để cải thiện an ninh lương thực, đặc biệt cho nhóm người nghèo, các nhà hoạch định chính sách có thể tạo ra cơ hội quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất lương thực tại các nước đang phát triển thông qua: tăng cường viện trợ thương mại (aid for trade); thu hút đầu tư vào nghiên cứu & phát triển (R&D) nông nghiệp; mở rộng ứng dụng công nghệ nông nghiệp hiện đại; thúc đẩy kỹ thuật sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn, qua đó tận dụng lợi ích cho nông dân sản xuất nhỏ.
Ngoài ra, dù nghiên cứu không cho thấy thiên tai có tác động đến an ninh lương thực, tuy nhiên, các biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu thiệt hại nông nghiệp và đảm bảo nguồn lương thực ổn định là hết sức cần thiết.
Tài liệu tham khảo:
1. Ashraf, J., Jun, M., Ali, S., Ghufran, M., & Xiaobao, P. (2024). Zero-hunger through the lens of food security in populous Asia: pre and post-pandemic, Frontiers in Sustainable Food Systems, 8, 1210385.
2. Clapp J. (2015). Food Security and Contested Agricultural Trade Norms, University of Toronto Law Journal, 11(2), 104-115.
3. Cullis, A., & Bogale, S. (2024). Aligned climate drivers and potential impacts on food security in Ethiopia in 2024, https://www.sparc-knowledge.org/publications-resources/aligned-climate-drivers-and-potential-impacts-food-security-ethiopia-2024.
4. Fanelli, R. M. (2019). The (un) sustainability of the land use practices and agricultural production in EU countries. Int. J. Environ. Stud., 76, 273-294.
5. Fanelli, R. M. (2018). The interactions between the structure of the food supply and the impact of livestock production on the environment. A multivariate analysis for understanding the differences and the analogies across European Union countries, Calitatea, 19, 131-139.
6. Fathelrahman, E., Davies, S., & Muhammad, S. (2021). Food trade openness and enhancement of food security-Partial equilibrium model simulations for selected countries. Sustainability, 13(8), 4107.
7. Fusco, G., Coluccia, B., De Leo, F. (2020). Effect of trade openness on food security in the EU: A dynamic panel analysis. Int. J. Environ. Res. Public Health, 17, 4311.
8. McCorriston, S. et al. (2013). What is the evidence of the impact of agricultural trade liberalisation on food security in developing countries?; EPPI-Centre, Social Service Research Unit, Institute of Education, University of London: London, UK.
9. Mozumdar, L. (2012). Agricultural productivity and food security in the developing world. Bangladesh Journal of Agricultural Economics, 35, 53-69.
10. Rajakaruna, R. M. A. S. D., Sewwandi, B. G. N., & Najim, M. M. M. (2024). Effects of climate change and adaptation strategies on food security in Sri Lanka. YSF Thematic Publication, 3.
11. Salahodjaev, R., Mirziyoyeva, Z. (2021). The link between food security and life satisfaction: Panel data analysis. Sustainability, 13, 2918.
12. Squires, V.R., Gaur, M.K. (2020). Food security and land use change under conditions of climate variability: Synthesis and uniting perspectives. In Food Security and Land Use Change under Conditions of Climatic Variability; Springer: Berlin, Germany, pp. 331-345. doi:10.1007/978-3-030-36762-6_17.
13. Squalli, J. and Wilson, K. (2011). How open are Arab economies? An examination with the with the CTI measure, The World Economy, 34(10), 1745-1770.
14. Sun, Z., Zhang, D. (2021). Impact of trade openness on food security: Evidence from panel data for Central Asian countries. Foods, 10, 3012. doi:10.3390/foods10123012.
15. Świetlik, K. (2018). Economic growth versus the issue of food security in selected regions and countries worldwide. Problems of Agricultural Economics, 3(356).
16. Théodore, G.K., Wonyra, K.O. (2023). New evidence in the relationship between trade openness and food security in Sub-Saharan Africa. Preprint. doi:10.21203/rs.3.rs-2429858/v1.
17. Zotikov, N., Savderova, A., & Lyubovtseva, E. (2021). Agricultural development as a factor in ensuring import substitution and strengthening the country’s food security, IOP Conference Series: Earth and Environmental Science, 935(1).
Ngày nhận bài: 26/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/8/2025; Ngày duyệt đăng: 24/8/2025 |