Ngành tôm và giải pháp giảm phát thải khí nhà kính hướng đến phát triển sản xuất xanh

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tài liệu và dữ liệu thứ cấp để đánh giá thực trạng phát thải khí nhà kính của ngành tôm, từ đó đưa ra giải pháp cụ thể, góp phần phát triển ngành tôm bền vững.

ThS. Trần Thanh Trâm

Khoa Kinh tế - Quản trị, Trường Đại học Văn Hiến

Email: tramtt@vhu.edu.vn

Tóm tắt

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết giảm mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, ngành tôm đối mặt với thách thức chuyển đổi sang sản xuất xanh để đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế về giảm phát thải và phát triển bền vững. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tài liệu và dữ liệu thứ cấp để đánh giá thực trạng phát thải khí nhà kính của ngành tôm, từ đó đưa ra 4 giải pháp cụ thể: chuyển đổi mô hình nuôi theo hướng giảm phát thải, sử dụng năng lượng tái tạo, cải tiến quản lý thức ăn và xây dựng hệ thống giám sát phát thải. Các giải pháp này được kỳ vọng sẽ góp phần phát triển ngành tôm bền vững, nâng cao sức cạnh tranh và thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.

Từ khóa: Ngành tôm, phát thải khí nhà kính, phát triển bền vững, sản xuất xanh

Summary

In the context of Viet Nam’s commitment to achieving net-zero emissions by 2050, the shrimp industry faces the challenge of transitioning to green production to meet international market demands for emission reduction and sustainable development. The study employs document analysis and secondary data to assess the current status of greenhouse gas emissions in the shrimp industry. Based on this assessment, four specific solutions are proposed: transitioning to low-emission farming models, adopting renewable energy sources, improving feed management practices, and developing emission monitoring systems. These solutions are expected to support the sustainable development of the shrimp industry, enhance its competitiveness, and contribute to fulfilling Viet Nam’s international climate change commitments.

Keywords: Shrimp industry, greenhouse gas emissions, sustainable development, green production

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong nhiều năm liền, tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, đóng góp khoảng 35-40% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản hàng năm, kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD năm 2024. Tuy nhiên, một trong những khó khăn chung của ngành tôm là vấn đề kiểm soát lượng phát thải khí nhà kính trong mô hình nuôi tôm thâm canh. Thực tế cho thấy, mô hình nuôi tôm thâm canh hiện nay phát thải khí nhà kính gấp 15 lần so với quảng canh, trong đó điện đóng góp 82% và thức ăn 17% tổng lượng phát thải. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác gây tác động mạnh mẽ đến sự quá tải của phát thải khí nhà kính như: xăng, dầu, vôi, phân bón, chế phẩm sinh học… (Bành Thị Hồng Lan, 2020). Do đó, tác giả nghiên cứu và đề xuất các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong ngành tôm, nhằm hướng đến phát triển sản xuất xanh, giúp duy trì và thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng bền vững.

THỰC TRẠNG PHÁT THẢI NHÀ KÍNH CỦA NGÀNH TÔM

Phát triển và phát thải ở ngành tôm

Ngành tôm Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể trong năm 2024. Theo số liệu từ Cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản - Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Môi trường), diện tích thả nuôi tôm năm 2024 đạt 749.800 ha, trong đó tôm sú là 628.800 ha, tôm thẻ chân trắng là 121.000 ha. Sản lượng tôm nước lợ thu hoạch đạt trên 1,29 triệu tấn, riêng tôm thẻ chân trắng đóng góp gần 952.000 tấn (Hương, 2025). Kim ngạch xuất khẩu tôm năm 2024 đạt 3,9 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2023, trong đó tôm chân thẻ trắng tăng 8% đạt 2,7 tỷ USD. Đáng chú ý, ngành tôm đã bắt đầu xuất khẩu tôm giống với lô hàng đầu tiên 2,5 triệu con tôm giống Mebi One sang thị trường Đài Loan, (Trung Quốc) trị giá 11.000 USD, đánh dấu bước tiến vượt bậc trong ngành sản xuất tôm giống của Việt Nam (Hương, 2024). Tuy nhiên, ngành tôm cũng đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là dịch bệnh, trên 21.700 ha diện tích tôm nước lợ bị thiệt hại, chiếm khoảng 96% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại. Bên cạnh đó, hạ tầng phục vụ sản xuất ngành tôm còn thiếu và chưa đồng bộ, chất lượng giống chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ nuôi sống thấp, khiến sức cạnh tranh so với các nước như Ấn Độ, Ecuador còn nhiều hạn chế.

Trong quá trình nuôi tôm, để giữ cho tôm luôn được khỏe mạnh có thể xuất khẩu, thì tôm cần được sử dụng đa dạng các loại thức ăn, đèn điện, nguồn nước. Vì vậy, các chất thải trong quá trình nuôi tôm đã góp phần gia tăng hiệu ứng nhà kính và tác động tiêu cực đến môi trường sống xung quanh. Phát thải có thể xảy ra ở nhiều dạng khác nhau, gồm: điện năng, thức ăn, nguồn nước, hơi nước, các loại khí: CFC, CH4, CO2, N2O, O3.

Kết quả giám sát phát thải khí nhà kính trong ao nuôi tôm do Dự án “Chuyển đổi năng lượng và thích ứng với biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long” thực hiện từ các ao nuôi tôm tại khu vuẹc Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu (nay là Cà Mau) cho thấy, mô hình nuôi tôm thâm canh phát thải khí nhà kính cao gấp 15 lần so với nuôi tôm quảng canh. Trong khi mật độ nuôi, nạo vét ao là những yếu tố chính quyết định đến lượng khí nhà kính phát thải từ các ao nuôi tôm quảng canh, thì trong mô hình nuôi tôm thâm canh, điện và thức ăn là 2 nguồn phát thải chính. Trong đó, lượng điện tiêu thụ đóng góp 82% và thức ăn đóng góp 17% vào tổng lượng khí nhà kính phát thải. Liên quan đến nguồn phát thải góp phần làm tăng hiệu ứng nhà kính, trong chuỗi giá trị ngành hàng tôm, có khá nhiều công đoạn gây ra tình trạng này. Phát thải khí nhà kính có thể đến từ: xăng, dầu, điện, cho đến các loại vật tư đầu vào phục vụ quá trình nuôi, như: vôi, phân bón, thức ăn, chế phẩm sinh học… và lượng phát thải khí nhà kính có sự khác nhau trong từng mô hình. Theo đó, lượng phát thải khí nhà kính mà nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ đo được (kg CO2/kg tôm tươi) đối với mô hình nuôi thâm canh là 9,3, nuôi siêu thâm canh là 11,7, nuôi siêu thâm canh theo ASC là 12,5. Riêng lượng phát thải ở các mô hình nuôi tôm theo hướng xanh, như: tôm rừng chỉ có 0,8, tôm rừng hữu cơ 0,3, quảng canh cải tiến 0,7; lúa - tôm 1,3, tức tiệm cận mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) như kỳ vọng.

Bên cạnh kết quả nghiên cứu tại Trường Đại học Cần Thơ, nghiên cứu thực địa tại 4 xã thuộc huyện Đông Hải trước đây với 20 hộ nuôi tôm cũng cho kết quả tương tự (Tuấn, 2023). Nghiên cứu này cũng chỉ ra cơ chế phát thải cụ thể: trong quá trình nuôi tôm thâm canh, việc sử dụng thức ăn công nghiệp có hàm lượng protein cao khiến tôm thải ra nhiều amoniac, kết hợp với thức ăn dư thừa, phân tôm và xác tảo tạo thành các hợp chất hữu cơ lơ lửng và hòa tan dưới dạng amoniac (NH₄⁺/NH₃) hoặc nitrite (NO₂⁻), đây chính là nguồn gốc phát sinh các chất gây phát thải khí nhà kính.

Một số khó khăn, hạn chế

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết thực hiện mục tiêu Net Zero vào năm 2050, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, nhất là Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2050, với mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo hướng hiện đại, minh bạch, trách nhiệm và bền vững, ngành tôm đang đối mặt với những thách thức lớn trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất. Một trong những thách thức dài hạn của ngành tôm chính là những yêu cầu mới từ thị trường, trong đó có các quy định về giảm phát thải, tăng tuần hoàn và phát triển xanh. Ngành tôm cần có sự chuẩn bị sớm, nếu không đến khi những thách thức này được dựng lên thành rào cản thì sẽ rất khó khăn trong việc duy trì khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một trong những khó khăn lớn nhất là việc chuyển đổi từ các mô hình nuôi thâm canh và siêu thâm canh - những mô hình có mức phát thải khí nhà kính cao - sang các mô hình sản xuất xanh. Theo nghiên cứu của PGS.TS Võ Nam Sơn (Trường Đại học Cần Thơ), mô hình nuôi thâm canh có mức phát thải 9,3 kg CO₂/kg tôm tươi, nuôi siêu thâm canh là 11,7 kg CO₂/kg tôm tươi, trong khi các mô hình xanh như tôm rừng hữu cơ chỉ có 0,3 kg CO₂/kg tôm tươi (Chu, 2024). Điều này đòi hỏi sự thay đổi căn bản trong cách thức sản xuất, từ việc sử dụng năng lượng tái tạo, quản lý thức ăn hiệu quả, đến áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn.

Bên cạnh đó, việc đo lường và giám sát phát thải khí nhà kính từ ao nuôi tôm để xác định các nguồn phát thải chính và đưa ra biện pháp can thiệp phù hợp cũng là một thách thức về mặt kỹ thuật và tài chính đối với các nông hộ và doanh nghiệp nuôi tôm.

Trong Chiến lược Quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2050, Chính phủ định hướng và tăng cường giải pháp giảm phát thải carbon tối đa theo hiệu ứng Net Zero. Với chiến lược sản xuất xanh, kinh tế bền vững, Chính phủ đã giúp cộng đồng dân cư địa phương kết nối hữu hiệu với các doanh nghiệp thủy hải sản có thể chuyển đổi năng lượng, tư duy quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 14000 để xuất khẩu thuận lợi sang thị trường quốc tế như Châu Âu và các quốc gia Châu Á. Đồng thời, tận dụng hành lang pháp lý được ưu tiên với các cam kết về đầu tư, thương mại, dịch vụ nhằm phát triển bền vững, đáp ứng các tiêu chuẩn cao theo quy định kiểm định của các thị trường xuất khẩu.

GIẢI PHÁP GIẢM PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH CHO NGÀNH TÔM VIỆT NAM

Để giúp ngành tôm giảm phát thải khí nhà kính, hướng đến phát triển sản xuất xanh, kinh tế bền vững, dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học và thực tiễn ứng dụng, tác giả đề xuất 4 giải pháp cụ thể sau:

Chuyển đổi mô hình nuôi tôm theo hướng giảm phát thải

Nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ cho thấy, các mô hình nuôi tôm có mức phát thải khí nhà kính khác nhau rõ rệt. Cần khuyến khích chuyển đổi từ mô hình nuôi thâm canh (9,3 kgCO₂/kg tôm tươi) và siêu thâm canh (11,7 kgCO₂/kg tôm tươi) sang các mô hình có mức phát thải thấp như: quảng canh cải tiến (0,7 kgCO₂/kg tôm tươi), mô hình lúa - tôm (1,3 kgCO₂/kg tôm tươi), tôm rừng (0,8 kgCO₂/kg tôm tươi) và tôm rừng hữu cơ (0,3 kgCO₂/kg tôm tươi). Đồng thời, áp dụng mô hình nuôi đa loài trong một ao, nuôi kết hợp tôm với các đối tượng khác để tạo hệ sinh thái tuần hoàn khép kín.

Chuyển đổi sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất

Do điện tiêu thụ đóng góp 82% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong mô hình nuôi thâm canh, việc chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo là giải pháp then chốt. Cần ưu tiên đầu tư hệ thống điện mặt trời, biogas từ chất thải nuôi trồng và các nguồn năng lượng xanh khác để thay thế điện lưới truyền thống. Bên cạnh đó, cần sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm thông qua việc tối ưu hóa hệ thống sục khí, bơm nước và các thiết bị điện khác trong quá trình nuôi.

Cải tiến quản lý thức ăn và giảm thiểu hệ số chuyển đổi thức ăn

Thức ăn đóng góp 17% vào tổng lượng phát thải khí nhà kính, do đó cần có biện pháp quản lý hiệu quả. Áp dụng công nghệ cho ăn thông minh, sử dụng thức ăn sinh học có hệ số chuyển đổi thấp, quản lý chặt chẽ lượng thức ăn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tôm. Đồng thời, nghiên cứu phát triển thức ăn từ nguồn nguyên liệu địa phương, giảm phát thải từ vận chuyển và sản xuất thức ăn công nghiệp.

Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá phát thải khí nhà kính

Thiết lập hệ thống đo lường, giám sát phát thải khí nhà kính từ ao nuôi tôm để xác định chính xác các nguồn phát thải chính trong từng mô hình sản xuất cụ thể. Phát triển các chỉ tiêu đánh giá, chứng nhận sản phẩm tôm carbon thấp theo tiêu chuẩn quốc tế. Ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc tối ưu hóa quy trình sản xuất nhằm giảm thiểu phát thải. Đồng thời, xây dựng cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các nông hộ, doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế và hỗ trợ kỹ thuật.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngành tôm Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Với mức phát thải khí nhà kính của mô hình thâm canh cao gấp 15 lần so với quảng canh, việc chuyển đổi sang sản xuất xanh không chỉ là yêu cầu từ thị trường quốc tế mà còn là điều kiện tiên quyết để ngành tôm phát triển bền vững. Các giải pháp được đề xuất gồm: chuyển đổi mô hình nuôi, sử dụng năng lượng tái tạo, cải tiến quản lý thức ăn và xây dựng hệ thống giám sát, có cơ sở khoa học vững chắc và khả thi cao trong thực tiễn. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp này sẽ giúp ngành tôm Việt Nam không chỉ giảm phát thải khí nhà kính, mà còn nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng cam kết Net Zero 2050 và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Hướng nghiên cứu tiếp theo cần tập trung vào đánh giá hiệu quả kinh tế - môi trường của từng giải pháp và xây dựng mô hình thí điểm tại các vùng nuôi tôm trọng điểm.

Tài liệu tham khảo:

1. Bành Thị Hồng Lan (2020). Phân tích thực trạng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam, https://tapchicongthuong.vn/phan-tich-thuc-trang-phat-thai-khi-nha-kinh-tai-viet-nam-72541.htm.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019). Thông báo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu, Hà Nội, Việt Nam.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020). Thực trạng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam.

4. Bùi Thị Thu Trang (2021). Nghiên cứu phát thải khí CH4 và N2O trong lĩnh vực trồng trọt vùng đồng bằng Sông Hồng, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý tài nguyên và môi trường, Viện Khoa học khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu.

5. Chu, T. (2024). Con tôm và khí nhà kính, https://nguoinuoitom.vn/con-tom-va-khi-nha-kinh.

6. Đỗ Quang Hùng (2022). Đánh giá mức độ phát thải khí nhà kính của hoạt động canh tác lúa và chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và đề xuất giải pháp giảm thiểu phát thải, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Biến đổi khí hậu, Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Hoàng Nam (2021). Hiện trạng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức, Tạp chí Khí tượng Thủy văn, 728, 51-66.

8. Hương, Đ. (2024). Gỡ rào cản để bứt phá xuất khẩu cho sản phẩm tôm, https://baochinhphu.vn/go-rao-can-de-but-pha-xuat-khau-cho-san-pham-tom-102240924090142782.htm.

9. Hương, Đ. (2025). Cần thay đổi sản xuất để phát triển ngành tôm bền vững, https://baochinhphu.vn/can-thay-doi-san-xuat-de-phat-trien-nganh-tom-ben-vung-102250216095600561.htm.

10. Trịnh Xuân Báu và Ngô Quang Dự (2022). Nghiên cứu đánh giá tác động tích lũy trong đánh giá môi trường trên thế giới - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học Tài Nguyên và Môi trường, số 41.

11. Trường Đại học Cần Thơ (2024). Dự án Chuyển đổi năng lượng và thích ứng với biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long.

12. Tuấn, Đ. (2023). Giảm phát thải khí nhà kính trong nuôi trồng thủy sản, https://thiennhienmoitruong.vn/giam-phat-thai-khi-nha-kinh-trong-nuoi-trong-thuy-san.html.

Ngày nhận bài: 31/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/8/2025; Ngày duyệt đăng: 18/8/2025