Giải pháp phát triển nông nghiệp tuần hoàn ở Việt Nam

Mô hình nông nghiệp tuần hoàn không chỉ giúp giảm thiểu lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường mà còn tạo ra giá trị gia tăng mới từ những gì trước đây bị coi là chất thải.

PGS, TS. Nguyễn Thị Minh Hiền

TS. Mai Lan Phương

Khoa Kinh tế và Quản lý, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

ThS. Nguyễn Xuân Bách

Phòng nghiệp vụ 1, Kho bạc nhà nước khu vực X

ThS. Vũ Hoàng Quân

Binh chủng công binh - Bộ Quốc phòng

Tóm tắt

Ở nước ta, nông nghiệp tuần hoàn đã bắt đầu được ứng dụng nhiều trong sản xuất nông nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, các mô hình vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu hệ thống và chưa được chuẩn hóa. Bài viết phân tích các rào cản ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp và đề xuất một số giải pháp chính sách phát triển nông nghiệp tuần hoàn ở Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp tuần hoàn, rào cản, Việt Nam

Summary

In Viet Nam, circular agriculture has increasingly been applied in agricultural production through various models. However, these models remain fragmented, small-scale, lack systematization, and are not yet standardized. The article analyzes the barriers affecting the development of circular economy in agriculture and proposes policy solutions to promote circular agriculture in the country in the near future.

Keywords: Circular economy, circular agriculture, barriers, Viet Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những thách thức kép về an ninh lương thực, biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường, phát triển nông nghiệp bền vững trở thành mục tiêu quan trọng. Nông nghiệp - ngành kinh tế trọng yếu của đất nước - đang đứng trước yêu cầu phải tái cấu trúc theo hướng xanh, thông minh và tuần hoàn. Mô hình nông nghiệp tuần hoàn (NNTH) không chỉ giúp giảm thiểu lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường mà còn tạo ra giá trị gia tăng mới từ những gì trước đây bị coi là chất thải. Tuy nhiên, để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển NNTH, không thể chỉ dựa vào sáng kiến tự phát của người dân và doanh nghiệp mà cần có hệ thống chính sách rõ ràng, đồng bộ và thực thi hiệu quả, đặc biệt là trong bối cảnh thực tiễn của Việt Nam còn tồn tại nhiều rào cản lớn.

MỘT SỐ MÔ HÌNH NÔNG NGHIỆP TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM

Việt Nam hiện đã có nhiều mô hình mang tính chất tuần hoàn đã được người dân áp dụng từ lâu như vườn ao chuồng (VAC), canh tác hữu cơ, chăn nuôi kết hợp sản xuất phân bón hữu cơ, xử lý nước thải nuôi cá… Tuy nhiên, đa phần các mô hình vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu hệ thống và chưa được chuẩn hóa, chưa được nhân rộng trên phạm vi toàn quốc. Một số mô hình NNTH đang được triển khai, có thể kể đến như sau:

Mô hình Vườn - Ao - Chuồng (VAC)

Mô hình VAC đã được áp dụng phổ biến ở Việt Nam từ những năm 1980 và được coi là hình thức NNTH đơn giản nhất. VAC đã tạo ra một mô hình sản xuất nông nghiệp tổng hợp, gắn kết trồng trọt với chăn nuôi, hạn chế chất thải, thuận theo tự nhiên và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn. Sau này, mô hình VAC đã được cải tiến phù hợp với trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng như điều kiện sinh thái của từng vùng lãnh thổ trên cả nước.

Mô hình “lúa, tôm”; “lúa, cá”

Mô hình “lúa, tôm” được áp dụng từ đầu những năm 2000 ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long; mô hình “lúa, cá” được thực hiện ở các tỉnh vùng trũng, hay ngập úng ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Với mô hình luân canh này, hầu như cây trồng, vật nuôi không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, tạo ra sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường và giúp nông dân nâng cao thu nhập.

Mô hình trồng lúa - trồng nấm - sản xuất phân hữu cơ - trồng cây ăn quả

Mô hình này được phổ biến ở hầu khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Trong mô hình này, người nông dân đã tận dụng nguyên liệu từ phụ phẩm rơm rạ trong trồng lúa để trồng nấm, bã rơm rạ sau khi thu hoạch nấm được tận dụng để bón cho cây trồng (cây ăn quả, rau màu) rất tốt. Mô hình này cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình sản xuất phân hữu cơ từ chất thải nông nghiệp

Mô hình này đã được nhiều địa phương trong cả nước thực hiện. Mô hình đã sử dụng các phụ phẩm từ trồng trọt, rác thải sinh hoạt, chất thải từ chăn nuôi ủ làm phân bón hữu cơ để chăm sóc, cải tạo đất bạc màu, đất thiếu dinh dưỡng, trả lại độ phì cho đất, canh tác nông sản hữu cơ. Lượng chất thải được tái sử dụng làm phân bón ổn định, vừa tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng sạch hơn và giảm thiểu phát thải, giảm khí nhà kính.

Mô hình sản xuất tổng hợp bò/lợn - trùn quế - cỏ/ngô - gia súc, gia cầm - cá

Mô hình tận dụng chất thải chăn nuôi (phân) để nuôi trùn quế; lấy phân trùn quế bón cỏ/ngô; trùn quế làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, cá, đem lại hiệu quả kinh tế cao, giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường.

Mô hình chăn nuôi an toàn sinh học 4F (trồng trọt - thực phẩm - chăn nuôi - phân bón)

Có thể coi đây là mô hình kinh tế tuần hoàn đúng nghĩa đầu tiên trong nông nghiệp do tập đoàn Quế Lâm thực hiện. Mô hình là chu trình sản xuất khép kín, gồm: chăn nuôi lợn hữu cơ, sản xuất các chế phẩm sinh học, sản xuất thức ăn chăn nuôi hữu cơ và sản xuất phân bón vi sinh. Trong mô hình này, chất thải trong trang trại được thu gom và xử lý để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt, tạo thành quy trình sản xuất nông nghiệp khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ cây đến đất.

Mô hình “vòng tuần hoàn xanh” trong các trang trại bò sữa

Đây là mô hình chăn nuôi được Công ty Vinamilk áp dụng để phát triển trang trại bò sữa thân thiện với môi trường. Trong các trang trại bò sữa, Vinamilk thực hiện quy trình chăn nuôi khép kín: từ làm đất, trồng cỏ, chăm sóc bò đến xử lý chất thải để tạo “vòng tuần hoàn xanh”. Nhờ công nghệ biogas, chất thải gia súc được xử lý để tiếp tục bón cho đồng cỏ, cải tạo đất và một phần khác được biến đổi thành khí metan dùng để đun nước nóng dùng cho hoạt động của trang trại.

Mô hình nuôi thủy sản với công nghệ tuần hoàn nước

Hệ thống tuần hoàn RAS đã được các cơ sở nuôi trồng thủy sản ứng dụng trong những năm gần đây nhờ khả năng tạo ra môi trường ổn định cho các loài thủy sản sinh trưởng và phát triển, hạn chế ô nhiễm môi trường. Các công nghệ RAS tiên tiến nhất có tỷ lệ tái sử dụng nước lên đến 95%-99%. Hệ thống RAS cho phép kiểm soát tốt hơn các công nghệ khác trong nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu quả sản xuất cao và lợi ích kinh tế đáng kể.

NHỮNG RÀO CẢN CHÍNH TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM

Thiếu thể chế và hành lang pháp lý rõ ràng

Khung chính sách về phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn chưa được hoàn thiện; thiếu cơ chế khuyến khích; thiếu chính sách hỗ trợ cụ thể là các rào cản lớn trong việc ứng dụng kinh tế tuần hoàn nói chung hay NNTH nói riêng.

NNTH hiện vẫn chưa được xác định là một lĩnh vực độc lập trong hệ thống pháp luật. Không có văn bản quy định riêng, thiếu định nghĩa pháp lý cụ thể, thiếu tiêu chí đánh giá, thiếu cơ chế giám sát. Nội dung liên quan đến tuần hoàn mới chỉ được lồng ghép trong các chính sách môi trường hoặc nông nghiệp hữu cơ, nên không tạo được lực đẩy đủ mạnh.

Rào cản về đất đai

Quyền sử dụng đất không đảm bảo cũng là rào cản lớn ảnh hưởng. Đất đai hạn hẹp và manh mún là những rào cản đối với việc thương mại hoá và cải thiện lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp. Chính phủ đã đề ra mục tiêu giảm mức độ manh mún đất đai thông qua chương trình dồn điền, đổi thửa. Tuy nhiên, tại hầu hết các địa phương trong cả nước, thị trường cho thuê đất nông nghiệp vẫn chưa phát triển. Những điều này cũng cản trở đến việc triển khai, áp dụng các mô hình NNTH.

Rào cản về nhận thức và hiểu biết

Đây là rào cản phổ biến và nghiêm trọng nhất. Phần lớn nông dân Việt Nam vẫn quen với tư duy sản xuất tuyến tính (trồng - thu hoạch - bán hoặc bỏ phụ phẩm). Họ chưa có đầy đủ nhận thức đầy đủ về NNTH, sự khác biệt với nông nghiệp truyền thống và lợi ích kinh tế - môi trường - xã hội của sản xuất tuần hoàn. Ngoài ra, nhiều hộ dân còn e ngại trong áp dụng các mô hình mới. Tình trạng này phổ biến hơn ở các vùng sâu, vùng xa, nơi trình độ học vấn và tiếp cận thông tin còn hạn chế.

Thiếu nhân lực chất lượng cao và hệ thống khuyến nông đổi mới

Nguồn nhân lực nông thôn, nguồn khoa học công nghệ còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, cơ cấu chưa phù hợp. Bên cạnh đó, thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi để phát triển kinh tế tuần hoàn, giúp giải quyết tốt các vấn đề, từ khâu đầu đến khâu cuối của cả quá trình.

Các cán bộ khuyến nông chủ yếu đào tạo theo hướng truyền thống, chưa được cập nhật kiến thức về tuần hoàn, kinh tế xanh, công nghệ môi trường… Trong khi đó, đội ngũ cán bộ địa phương còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn triển khai mô hình mới.

Thiếu chính sách khuyến khích tài chính

Việc tiếp cận tài chính và các nguồn vốn phù hợp cũng là rào cản lớn cho nhiều thành phần kinh tế trong xã hội trong phát triển NNTH nói riêng và xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn nói chung đặc biệt là nông hộ và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc đầu tư vào công nghệ xử lý chất thải và sản xuất tuần hoàn thường tốn kém ban đầu. Thiếu chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế, bảo hiểm làm hạn chế động lực của doanh nghiệp và nông dân. Các cơ chế tài chính hiện hành vẫn tập trung hỗ trợ sản xuất truyền thống. Ngoài ra, các ưu đãi về thuế, bảo hiểm, đầu tư công nghệ xanh còn thiếu hoặc chưa rõ ràng.

Thiếu công nghệ phù hợp và sẵn có

Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ còn hạn chế, chưa hiệu quả trong khi phát triển kinh tế tuần hoàn phải gắn với đổi mới khoa học, tiếp cận công nghệ tiên tiến.

Kỹ thuật xử lý chất thải và công nghệ còn lạc hậu. Công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Hầu hết nông dân còn sử dụng công nghệ thủ công, chưa tiếp cận được các giải pháp kỹ thuật phù hợp với mô hình tuần hoàn như ủ phân sinh học, biogas hiệu quả, xử lý nước thải.

Việt Nam còn thiếu các công nghệ xử lý phụ phẩm và chất thải phù hợp với quy mô nhỏ - trung bình, giá thành hợp lý, dễ sử dụng. Các giải pháp công nghệ thường không được chuẩn hóa, khó bảo trì, thiếu dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ.

Công tác phối hợp trong khoa học và công nghệ ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hầu hết các viện nghiên cứu và trường đại học không làm việc cùng các đơn vị thụ hưởng (doanh nghiệp và người nông dân), những người cần và sử dụng các phát minh, cải tiến.

Thiếu sự liên kết chuỗi và vai trò điều phối

NNTH đòi hỏi kết nối chặt chẽ giữa các tác nhân: người trồng trọt - chăn nuôi - chế biến - logistics - thương mại. Tuy nhiên, hiện nay sự liên kết chuỗi vẫn lỏng lẻo, thiếu sự tham gia của doanh nghiệp lớn, thiếu đầu mối điều phối hiệu quả.

Tình hình thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao còn rất hạn chế. Việc tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết, lấy doanh nghiệp là hạt nhân liên kết, tổ chức sản xuất với hộ nông dân, trang trại, Hợp tác xã để ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và quản trị chu trình sản xuất hàng hóa, truy xuất nguồn gốc… còn yếu. Ngoài ra, Việt Nam đang thiếu hạ tầng kết nối, hạ tầng thông tin trong nông nghiệp, nông thôn.

Thiếu sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi tuần hoàn. Thiếu sự phối hợp liên ngành. NNTH đòi hỏi sự kết nối giữa ngành nông nghiệp, tài nguyên môi trường, khoa học công nghệ, tài chính – ngân hàng... Tuy nhiên, hiện nay sự phối hợp này còn yếu, phân tán và chồng chéo.

Hệ thống thị trường và tiêu thụ yếu

Thị trường chưa có hệ thống chứng nhận, nhãn hiệu, truy xuất nguồn gốc riêng cho sản phẩm tuần hoàn. Điều này khiến người sản xuất chưa có động lực đầu tư.

Thị trường tiêu thụ sản phẩm tuần hoàn chưa phát triển: Người tiêu dùng chưa nhận thức được giá trị của sản phẩm sản xuất theo mô hình tuần hoàn, nên chưa có chênh lệch giá rõ rệt để tạo động lực chuyển đổi.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TUẦN HOÀN

Để thúc đẩy phát triển NNTH ở Việt Nam một cách thực chất và bền vững, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý và tiêu chuẩn hóa NNTH. Nhà nước phải coi doanh nghiệp là động lực trung tâm, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng người dân tham gia thực hiện. Vai trò kiến tạo của Nhà nước thể hiện trong việc tạo ra một môi trường để phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế tuần hoàn.

Nhà nước cần ban hành Chiến lược quốc gia về NNTH đến năm 2035, lồng ghép trong Chiến lược phát triển nông nghiệp, Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia; Rà soát, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, Luật Nông nghiệp, Luật Hợp tác xã theo hướng khuyến khích tuần hoàn hóa sản xuất; Ban hành bộ tiêu chí xác định và công nhận mô hình NNTH, phân theo cấp độ (hộ, hợp tác xã, doanh nghiệp) và quy mô; Xây dựng quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp phù hợp điều kiện Việt Nam.

Nhà nước cũng có thể thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn bằng chính sách khuyến khích, hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường cho sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu dùng, tái chế; Tăng cường quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong tái chế, thu hồi phụ phẩm.

Hai là, ban hành các chính sách hỗ trợ tài chính và ưu đãi đầu tư. Nhà nước cần tạo các gói tín dụng xanh cho NNTH, với cơ chế tiếp cận dễ dàng cho hợp tác xã, nông hộ; Miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị xử lý chất thải nông nghiệp, khuyến khích sản xuất nội địa công nghệ phù hợp; Hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất phân compost, khí sinh học, mô hình canh tác tái sinh.

Xây dựng cơ chế tín dụng ưu đãi riêng cho các mô hình NNTH. Có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các cơ sở sản xuất áp dụng mô hình tuần hoàn; Hỗ trợ một phần chi phí đầu tư hạ tầng, máy móc, thiết bị xử lý chất thải cho hợp tác xã, doanh nghiệp; Thành lập Quỹ hỗ trợ NNTH từ nguồn ngân sách và đóng góp của các tổ chức quốc tế.

Ba là, thúc đẩy nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế. Tổ chức phổ biến, chuyển giao các giải pháp, mô hình tận dụng, tái chế, thu hồi chất thải trong sản xuất nông nghiệp theo định hướng kinh tế tuần hoàn phù hợp với điều kiện hộ gia đình, hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng chuyển giao công nghệ tuần hoàn, kết hợp trồng trọt - chăn nuôi - thủy sản - lâm nghiệp, các công nghệ trong xử lý phế phụ phẩm

Khuyến khích các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp phối hợp phát triển sáng kiến công nghệ trong sản xuất NNTH.

Hỗ trợ ứng dụng chuyển đổi số trong giám sát tuần hoàn sản xuất, truy xuất nguồn gốc, chứng nhận sản phẩm

Bốn là, phát triển nguồn nhân lực và truyền thông, tăng cường tuyên truyền, giáo dục và đào tạo. Phát động chương trình “Nông dân làm tuần hoàn thông minh”, với các hội thi, mô hình điểm, video hướng dẫn ngắn gọn, dễ hiểu. Tổ chức tập huấn thường xuyên, Đưa nội dung về NNTH vào chương trình đào tạo nông nghiệp tại các trường trung cấp, cao đẳng và đại học, trung tâm khuyến nông.

Xây dựng nền tảng trực tuyến (app hoặc website) cung cấp thông tin, chia sẻ mô hình, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân; Tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn kỹ thuật kinh tế tuần hoàn cho nông dân, cán bộ khuyến nông và hợp tác xã và xây dựng các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò, lợi ích của NNTH.

Năm là, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền. Cần xây dựng chiến lược truyền thông về mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, bao gồm: vai trò, lợi ích, bản chất, nội dung, tiêu chí đến cách thức thực hiện... Chuyển từ tư duy chất thải sang quản lý nguyên vật liệu, phát triển cơ sở hạ tầng và các hoạt động sản xuất, kinh doanh tuần hoàn.

Đẩy mạnh tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các chương trình đào tạo từ các cấp phổ thông đến bậc đại học, các lớp tập huấn nông nghiệp, chương trình khuyến nông.

Tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các thông tin, các vấn đề và các thành tựu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực kinh tế tuần hoàn.

Sáu là, thúc đẩy số hóa và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, phân tích dữ liệu về kinh tế tuần hoàn. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, phân tích dữ liệu về kinh tế tuần hoàn để hỗ trợ việc quản lý và điều chỉnh việc thực hiện kinh tế tuần hoàn. Các dữ liệu về kinh tế tuần hoàn không chỉ là tập hợp thông tin về các điển hình hoặc sáng kiến tuần hoàn tốt để xem xét và nhân rộng, mà còn bao gồm cả các dữ liệu quan trọng, giúp theo dõi mức độ tuần hoàn của nền kinh tế (như tỷ lệ tái chế chất thải rắn, tỷ lệ tái sử dụng chất thải, hiệu suất tuần hoàn tài nguyên...).

Thúc đẩy số hóa các luồng vật liệu và kết nối các giải pháp tuần hoàn trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.

Bảy là, phát triển thị trường cho sản phẩm nông nghiệp tuần hoàn. Hỗ trợ phát triển thị trường và chứng nhận sản phẩm; Ban hành nhãn hiệu quốc gia cho sản phẩm tuần hoàn, kết nối với chương trình OCOP và chứng nhận an toàn sinh học; Tổ chức hội chợ, hội thảo giới thiệu sản phẩm NNTH trong nước và quốc tế.

Hỗ trợ xây dựng sàn thương mại điện tử cho sản phẩm tuần hoàn; Xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu sản phẩm tuần hoàn, chứng nhận và dán nhãn cho sản phẩm.

Kết nối tiêu thụ sản phẩm tuần hoàn với các hệ thống phân phối hiện đại (siêu thị, chợ đầu mối, sàn thương mại điện tử); Hỗ trợ xúc tiến thương mại quốc tế, quảng bá sản phẩm tuần hoàn Việt Nam ra thị trường nước ngoài.

Tám là, tăng cường vai trò điều phối liên ngành và của địa phương. Thành lập Tổ công tác liên ngành về NNTH cấp trung ương và tỉnh/thành phố; Giao nhiệm vụ cho các địa phương xây dựng bản đồ mô hình NNTH

Khuyến khích doanh nghiệp lớn làm "hạt nhân" liên kết chuỗi tuần hoàn vùng nguyên liệu. Giao cho UBND cấp tỉnh xây dựng kế hoạch hành động NNTH cấp địa phương. Đồng thời, phân bổ ngân sách hàng năm để thí điểm và nhân rộng các mô hình thành công; Tăng cường kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả triển khai chính sách NNTH tại địa phương.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2024). Sổ tay hướng dẫn nông nghiệp tuần hoàn phù hợp với điều kiện ở Việt Nam.

2. Lại Văn Mạnh (2022). Các vấn đề cơ bản về kinh tế tuần hoàn. Hội thảo “Khung phân tích phát triển NNTH” tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

3. Nguyễn Thị Miền (2021). Phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị, https://lyluanchinhtri.vn/phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-trong-nong-nghiep-o-viet-nam-mot-so-van-de-dat-ra-va-khuyen-nghi-1281.html

4. Nguyễn Thị Minh Hiền và cộng sự (2024). Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu giải phát phát triển NNTH ở Việt Nam”.

Ngày nhận bài: 5/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 9/8/2025; Ngày duyệt đăng: 15/8/2025