Nâng cấp trong chuỗi giá trị toàn cầu tại Việt Nam hiện nay

Sự gia tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu đã mở ra cơ hội lớn để các quốc gia đang phát triển kết nối với nền kinh tế thế giới và tận dụng các cơ hội từ hiệu ứng lan tỏa cho mục tiêu phát triển.

TS. Nguyễn Thanh Sơn

Viện Kinh tế chính trị học – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Email: nguyenthanhson.ktct@hcma.edu.vn

Tóm tắt

Sự gia tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu đã mở ra cơ hội lớn để các quốc gia đang phát triển kết nối với nền kinh tế thế giới và tận dụng các cơ hội từ hiệu ứng lan tỏa cho mục tiêu phát triển. Tuy vậy, việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu có mang lại tiềm năng phát triển kinh tế dài hạn cho một quốc gia hay không, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nâng cấp trong chuỗi giá trị của quốc gia đó. Nghiên cứu này phân tích cách thức biểu thị chuỗi giá trị toàn cầu bằng đường cong nụ cười, từ đó, trình bày ý nghĩa đối với việc nâng cấp trong chuỗi giá trị của Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở so sánh đường cong nụ cười cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông nội địa của Trung Quốc và Mỹ, nghiên cứu gợi mở một số biện pháp để Việt Nam nâng cấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Từ khóa: Đường cong nụ cười, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cấp, sản xuất chế tạo.

Summary

Integration into global value chains has provided developing countries with substantial opportunities to connect with the global economy and benefit from spillover effects to support their development objectives.

However, whether participation in global value chains leads to sustainable long-term economic growth depends largely on a country’s capacity to upgrade within the value chain. This study examines the conceptualization of global value chains through the smile curve framework and explores its implications for Vietnam’s value chain upgrading. By comparing the smile curve of domestic information and communication technology enterprises in China and the United States, the study offers policy recommendations aimed at enhancing Vietnam’s position in the global supply chain.

Keywords: Smile curve, global value chain, upgrading, manufacturing

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự phát triển của toàn cầu hóa từ cuối thế kỷ XX đến nay đã tạo ra những bước đột phá trong sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Việc phân công lao động đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia và diễn ra rộng khắp trên phạm vi toàn cầu. Baldwin (2011) gọi đây là quá trình tách nhóm sản xuất (production unbundling). Quá trình tách nhóm thứ nhất diễn ra trước những năm 1980, chủ yếu được thúc đẩy bởi sự sụt giảm trong chi phí thương mại xuất phát từ tiến bộ công nghệ trong giao thông vận tải và sự sụt giảm của các hàng rào thuế quan. Nhưng chính quá trình tách nhóm thứ hai từ những năm 1980 trở lại đây mới mang tính cách mạng, được hỗ trợ bởi sự phát triển của công nghệ thông tin, làm giảm chi phí truyền tải và gia tăng kết nối toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các mạng sản xuất hay chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) được hình thành và mang lại những thay đổi lớn trong thương mại toàn cầu.

Dưới tác động của các GVC, thương mại quốc tế thể hiện 3 xu hướng biến đổi lớn đó là: Sự gia tăng của các dòng thương mại nội bộ khu vực; gia tăng thương mại nội bộ ngành giữa các quốc gia; gia tăng thương mại giữa các ngành trong nội bộ một quốc gia. Các dòng thương mại nội bộ khu vực đã hình thành nên các chuỗi cung ứng khu vực, điển hình là 3 khu vực: Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á (Dent, 2008). Sự gia tăng thương mại nội bộ ngành giữa các quốc gia là hệ quả của phân công lao động quốc tế, khi mỗi quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất một chi tiết hay công đoạn nhất định, thay vì sản xuất toàn bộ sản phẩm. Cuối cùng, sự gia tăng thương mại giữa các ngành trong nội bộ quốc gia thể hiện các mối liên kết trong nền kinh tế và hiệu ứng lan tỏa mà GVC mang lại cho các nước tham gia vào chuỗi cung ứng. Việc tham gia vào GVC có mang lại tiềm năng phát triển kinh tế cho một quốc gia hay không, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng “nâng cấp” (upgrading) trong chuỗi giá trị của quốc gia đó (Ponte và cộng sự, 2019).

Hiện nay, có nhiều cách biểu thị mức độ tham gia của một quốc gia vào GVC như: ước lượng đường cong nụ cười (smile curve), thước đo mức độ tập trung, biểu thị kết nối mạng lưới hoặc biểu thị không gian sản phẩm. Bài viết này sẽ nghiên cứu cách thức biểu thị GVC bằng đường cong nụ cười, từ đó, trình bày ý nghĩa đối với việc nâng cấp trong chuỗi giá trị của Việt Nam hiện nay.

KHÁI NIỆM CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU

Khái niệm chuỗi giá trị được nhắc đến nhiều từ cuối thế kỷ XX, cùng với sự mở rộng của xu thế toàn cầu hóa trên thế giới. Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chuỗi giá trị và các thuật ngữ liên quan. Gereffi và cộng sự (2005) đã tiếp cận khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu dưới góc độ nghiên cứu cấu trúc và cơ chế phân phối giá trị giữa các quốc gia. Đây là một cấu trúc quản trị sản xuất, trong đó, các tập đoàn xuyên quốc gia thực hiện phân tách sản xuất theo chiều dọc để tập trung vào các phân khúc sản xuất có giá trị gia tăng cao nhất, trong khi thuê ngoài các chức năng khác. Đồng quan điểm, Athukorala (2011) cho rằng, ngày nay các quốc gia thực hiện việc chia sẻ sản xuất, tức là chia nhỏ quy trình sản xuất thành các giai đoạn tách biệt nhau về mặt địa lý, cho phép một hàng hóa duy nhất được sản xuất ở nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia lúc này sẽ chuyên môn hóa về một giai đoạn hoặc bộ phận cụ thể của sản phẩm cuối cùng, thay vì sản xuất toàn bộ sản phẩm tại một quốc gia.

Theo Harrigan và Venables (2006), các chuỗi giá trị vận hành theo mô hình sản xuất “vừa đúng lúc” (just-in-time), tức là các sản phẩm trong chuỗi giá trị phải đáp ứng yêu cầu là đúng sản phẩm, với đúng số lượng, tại đúng nơi và vào đúng thời điểm cần thiết. Trong mô hình vận hành này, các quy trình không tạo ra giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất hay cung ứng dịch vụ phải bị bãi bỏ. Nhờ đó, không có công đoạn nào trong quá trình sản xuất rơi vào tình trạng để không, chờ xử lý, không có nhân công hay thiết bị nào phải chờ đợi đầu vào để vận hành. Khi các nguyên tắc của mô hình này bị vi phạm, sẽ khiến cho quá trình sản xuất của chuỗi giá trị bị gián đoạn hoặc tắc nghẽn. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân vì sao các GVC thường được hình thành ở cấp độ khu vực, giữa những quốc gia gần nhau về mặt địa lý, nhằm đảm bảo các sản phẩm trong chuỗi giá trị được cung ứng một cách “vừa đúng lúc”.

BIỂU THỊ CHUỖI GIÁ TRỊ THÔNG QUA ƯỚC LƯỢNG ĐƯỜNG NỤ CƯỜI

Meng và cộng sự (2020) đã sử dụng dữ liệu thực tế để ước lượng đường nụ cười của một số GVC cụ thể. Khái niệm về đường nụ cười lần đầu tiên được đề xuất bởi Stan Shih (1992), người sáng lập Acer và sau đó được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về chuỗi giá trị. Theo lý thuyết này, cả hai đầu và cuối của chuỗi giá trị đều có giá trị gia tăng cao hơn cho sản phẩm so với phần giữa của chuỗi giá trị. Nếu biểu diễn hiện tượng này trên trục tọa độ trong đó trục tung là giá trị gia tăng và trục hoành các công đoạn sản xuất khác nhau của chuỗi giá trị, thì kết quả thu được là một đường cong giống như biểu thị một nụ cười.

Trên cơ sở nghiên cứu 35 ngành nghề khác nhau theo phân loại của Cơ sở dữ liệu đầu vào-đầu ra thế giới (World Input-Output database - WIOD), Meng và cộng sự (2020) đã chỉ ra, trong giai đoạn 1995-2011, số lượng công đoạn trung bình trong GVC đã tăng lên, đặc biệt là từ sau năm 2002 và đạt đỉnh vào năm 2008. Những ngành ở phần đầu của chuỗi giá trị gồm các ngành sản xuất nguyên liệu thô như: khai khoáng; các ngành sản xuất sản xuất các bộ phận và linh kiện cơ bản như: kim loại cơ bản, bột giấy và giấy, gỗ và hóa chất; và các ngành Công nghiệp tiện ích như: cung cấp điện, ga và nước. Các ngành nằm ở phần cuối của chuỗi giá trị chủ yếu là ngành sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ cuối cùng cho khách hàng như: ngành thực phẩm, khách sạn và nhà hàng, xây dựng, hành chính công, y tế và công tác xã hội và giáo dục. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Meng và cộng sự (2020) cho thấy, trong giai đoạn nghiên cứu từ 1995-2011 vị trí của các ngành trong chuỗi giá trị gần như không thay đổi và mang tính ổn định cao.

Dựa trên những phân tích tương tự như trên, Meng và Ye (2022) đã biểu thị đường nụ cười của chuỗi giá trị xuất khẩu thiết bị Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) của doanh nghiệp nội địa của Trung Quốc và Mỹ năm 2016 như trong Hình 1. Trục tung thể hiện tỷ lệ giá trị gia tăng công nghiệp, tức là giá trị gia tăng đạt được trên mỗi đơn vị USD sản lượng. Trục hoành thể hiện số lượng công đoạn trung bình của chuỗi giá trị, được đo bằng khoảng cách lan truyền giá trị gia tăng giữa một ngành cụ thể tham gia vào chuỗi giá trị và người tiêu dùng cuối cùng. Kích thước các vòng tròn thể hiện giá trị gia tăng tuyệt đối thu được khi tham gia chuỗi giá trị tương ứng (đơn vị: triệu USD theo giá so sánh). Đường cong nụ cười được ước lượng bằng hồi quy đa thức với trọng số theo giá trị gia tăng của mỗi công đoạn. Cuối cùng, vùng bóng mờ hiển thị khoảng tin cậy xung quanh đường cong ước lượng.

Hình 1: Chuỗi giá trị xuất khẩu thiết bị ICT của doanh nghiệp nội địa (năm 2016)

Nâng cấp trong chuỗi giá trị toàn cầu tại Việt Nam hiện nay

Nguồn: Meng và Ye (2022)

Kết quả Hình 1a cho thấy, các doanh nghiệp ICT nội địa của Trung Quốc tham gia vào một chuỗi cung ứng theo đúng kỳ vọng về một đường cong nụ cười. Trong đó, các doanh nghiệp nội đại của Trung Quốc trong ngành ICT (CHN_D13) chiếm phần lớn nhất trong tổng giá trị gia tăng, nhưng chỉ đạt được giá trị gia tăng rất thấp trên mỗi đơn vị xuất khẩu. Điều này được thể hiện bằng vị trí của các doanh nghiệp này nằm ở phần bụng, đáy thấp nhất của đường cong GVC.

Ngược lại, Hình 1b cho thấy, các doanh nghiệp ICT nội địa của Mỹ lại tham gia vào một đường cong nụ cười có dạng chữ U ngược. Các doanh nghiệp ICT nội địa của Mỹ (USD_D13) cũng chiếm phần lớn trong tổng giá trị gia tăng, nhưng với tỷ lệ giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị xuất khẩu cao hơn nhiều so với Trung Quốc. So sánh Hình 1a và 1b, cũng có thể thấy các doanh nghiệp ICT của Trung Quốc sử dụng rất nhiều đầu vào trung gian do các doanh nghiệp thuộc ngành và quốc gia khác cung cấp. Trong khi đó, các doanh nghiệp ICT của Mỹ thể hiện mức độ tự chủ sản xuất cao hơn và ít sử dụng các đầu vào trung gian từ các ngành và quốc gia khác cung cấp. Kết quả này phản ánh trình độ nâng cấp công nghệ và chuyên môn hóa cao hơn của các doanh nghiệp ICT nội địa của Mỹ so với của Trung Quốc.

GỢI MỞ VỀ HƯỚNG NÂNG CẤP TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU CHO VIỆT NAM

So sánh đường cong nụ cười của các doanh nghiệp ICT nội địa của Trung Quốc và Mỹ cho thấy, đường cong nụ cười không nhất thiết luôn có hình dạng chữ U như tên gọi của nó. Baldwin và Ito (2021) đã áp dụng một cách tiếp cận khác, trong đó, đường nụ cười được xác định trên cơ sở sự thay đổi mức độ đóng góp vào GDP của 3 công đoạn thuộc 3 ngành lớn, đó là công đoạn nguyên liệu thô, công đoạn sản xuất chế tạo và công đoạn dịch vụ. Kết quả nghiên cứu trong giai đoạn 1995-2005 cho thấy, các quốc gia khác nhau có thể tham gia vào những GVC với đường cong nụ cười có hình dáng khác nhau. Trong đó, Hàn Quốc có đường cong mà các tác giả gọi là đường “nụ cười nhếch mép” (smirk curve), vì một bên cao hơn bên còn lại. Còn Nhật Bản và Đài Loan có đường cong nụ cười rất gần với chữ U như kỳ vọng về lý thuyết. Baldwin và Ito (2021) chỉ ra nguyên nhân hình dạng các đường nụ cười khác nhau là bởi những thay đổi trong công nghệ, mức độ cạnh tranh, giá cả tương đối hoặc do tái cấu trúc doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau.

Trên cơ sở những sự phân tích trên, có thể rút ra một số gợi mở đối với Việt Nam trong quá trình nâng cấp trong GVC của mình.

Thứ nhất, việc nâng cấp trong chuỗi giá trị không chỉ là nâng cấp sang các công đoạn sản xuất khác có giá trị gia tăng cao hơn, mà cũng có thể là nâng cấp lên các sản phẩm, quy trình trong cùng một công đoạn nhưng tạo ra giá trị gia tăng cao hơn. Không phải tất cả GVC đều có đường cong nụ cười theo dạng chữ U, trong đó, hai đầu và cuối của chuỗi giá trị đều có giá trị gia tăng cao, trong khi công đoạn sản xuất chế tạo ở phần giữa của chuỗi giá trị thì có giá trị gia tăng thấp. Đặc biệt, với GVC của các doanh nghiệp ICT nội địa của Mỹ, đường cong nụ cười thậm chí còn có dạng chữ U ngược, trong đó, chính công đoạn sản xuất chế tạo lại là công đoạn tạo ra nhiều giá trị gia tăng nhất, xét cả về tổng giá trị gia tăng và về giá trị gia tăng trên đơn vị sản phẩm.

Thứ hai, để có thể nâng cấp trong GVC, cần phải xây dựng được hệ thống các ngành phụ trợ để tự chủ được về nguồn sản phẩm trung gian đầu vào. Một điểm khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp ICT nội địa của Mỹ với các doanh nghiệp Trung Quốc, là các doanh nghiệp Mỹ không cần sử dụng nhiều đầu vào từ các ngành khác, cũng như sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác cho công đoạn sản xuất chế tạo của mình.

Thứ ba, để tạo ra được giá trị gia tăng cao trên mỗi đơn vị sản phẩm xuất khẩu, đòi hỏi người lao động phải có tay nghề kỹ thuật tốt, năng suất lao động cao và sử dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất.

Từ những sự phân tích trên, có thể thấy, Việt Nam có thể nâng cấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách: nâng cấp sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong cùng công đoạn sản xuất chế tạo; xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ cho sản xuất chế tạo; đào tạo nâng cao tay nghề người lao động và đầu tư phát triển khoa học công nghệ để tăng năng suất lao động. Bên cạnh đó, một cách nâng cấp nữa trong chuỗi cung ứng toàn cầu là nâng cấp để tham gia vào các công đoạn đầu (tiền-chế tạo) và cuối (hậu-chế tạo) chuỗi, chứ không chỉ dừng lại ở tham gia vào khâu sản xuất chế tạo ở giữa chuỗi, thường là khâu dễ nhất để bước vào một chuỗi giá trị toàn cầu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Athukorala, Prema-chandra. (2011). Production networks and trade patterns in East Asia: regionalization or globalization? Asian Economic Papers, 10(1), pp. 65-95.

2. Baldwin, Richard. (2011). Trade And Industrialisation After Globalisation's 2nd Unbundling: How Building And Joining A Supply Chain Are Different And Why It Matters. National Bureau of Economic Research Working Paper Series, No. 17716.

3. Baldwin, Richard, & Ito, Tadashi. (2021).The smile curve: Evolving sources of value added in manufacturing. Canadian Journal of Economics/Revue canadienne d'économique, 54(4), pp. 1842-1880.

4. Dent, Christopher M. (2008). East Asian Regionalism. New York: Routledge.

Gereffi, Gary, Humphrey, John, & Sturgeon, Timothy. (2005). The governance of global value chains. Review of International Political Economy, 12(1), pp. 78-104.

5. Harrigan, James, & Venables, Anthony J. (2006). Timeliness and agglomeration. Journal of Urban Economics, 59(2), pp. 300-316.

6. Meng, Bo, & Ye, Ming. (2022). Smile curves in global value chains: Foreign- vs. domestic-owned firms; the U.S. vs. China. Structural Change and Economic Dynamics, 60, pp. 15-29.

7. Meng, Bo, Ye, Ming, & Wei, Shang-Jin. (2020). Measuring Smile Curves in Global Value Chains. Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 82(5), pp. 988-1016.

8. Ponte, Stefano, Gereffi, Gary, & Raj-Reichert, Gale. (2019). Handbook on Global Value Chains: Edward Elgar Publishing.

Ngày nhận bài: 08/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 16/6/2025; Ngày duyệt đăng: 20/6/2025