Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về thu hút và sử dụng vốn viện trợ phi chính phủ nước ngoài

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, viện trợ phi chính phủ nước ngoài là nguồn lực quan trọng bổ sung cho phát triển địa phương, nhất là ở các tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn. Bài viết phân tích kinh nghiệm của một số địa phương về thu hút và sử dụng vốn viện trợ phi chính phủ nước ngoài và rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh Phú Thọ.

ThS. Nguyễn Vĩnh Long

Phòng Hợp tác quốc tế - Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ

Email: viettri135@gmail.com

Tóm tắt

Trong giai đoạn 2014–2023, nhiều tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Hòa Bình và Điện Biên đã đạt được kết quả tích cực trong việc thu hút và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài, hướng đến mục tiêu giảm nghèo và phát triển bền vững. Mỗi địa phương có chiến lược riêng phù hợp với điều kiện địa lý – xã hội. Trên cơ sở tham khảo từ các tỉnh, tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm cho tỉnh Phú Thọ, nhằm tăng cường minh bạch, đa dạng hóa đối tác và nâng cao năng lực cán bộ cơ sở để thu hút và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài hiệu quả, phục vụ công cuộc giảm nghèo và phát triển bền vững của tỉnh .

Từ khóa: Kinh nghiệm, viện trợ phi chính phủ nước ngoài, thu hút và sử dụng vốn viện trợ

Summary

During the period 2014–2023, several northern mountainous provinces in Vietnam, including Ha Giang, Cao Bang, Vinh Phuc, Hoa Binh, and Dien Bien, achieved positive outcomes in attracting and utilizing foreign non-governmental aid, contributing to poverty reduction and the achievement of sustainable development goals. Each locality adopted its own strategy suited to its specific geographical and socio-economic conditions. Drawing from the experiences of these provinces, the author identifies key lessons for Phu Tho province, with recommendations aimed at enhancing transparency, diversifying partnerships, and strengthening the capacity of local officials to more effectively attract and manage foreign non-governmental aid in support of the province’s poverty alleviation and sustainable development efforts.

Keywords: Experience, foreign non-governmental aid, aid mobilization and utilization

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, viện trợ phi chính phủ nước ngoài (PCPNN) là nguồn lực quan trọng bổ sung cho phát triển địa phương, nhất là ở các tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 2014-2023, các tỉnh miền núi phía Bắc, như: Hà Giang, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Điện Biên, với đặc thù địa lý, dân cư và điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với tỉnh Phú Thọ đã ghi nhận nhiều kết quả nổi bật trong công tác vận động, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn viện trợ PCPNN [1]. Mỗi địa phương đều có cách tiếp cận riêng, phù hợp với điều kiện cụ thể, nhưng tựu trung đều hướng đến mục tiêu cải thiện sinh kế, giảm nghèo bền vững và phát triển cộng đồng. Bài viết này phân tích kinh nghiệm của các địa phương, trên cơ sở đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Phú Thọ trong thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ PCPNN.

KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VIỆN TRỢ PCPNN

Hà Giang - Chủ động, minh bạch, tập trung

Hà Giang nổi bật với việc xây dựng “bản đồ ưu tiên viện trợ theo vùng”, giúp xác định rõ các địa bàn khó khăn và nhu cầu cấp thiết. Trong giai đoạn 2014–2023, tỉnh đã tiếp nhận 74 tổ chức PCPNN với tổng viện trợ hơn 43,6 triệu USD. Viện trợ được phân bổ hợp lý, tập trung vào: y tế (29%), giáo dục (21%) và sinh kế bền vững (18%) (Bảng). Tỉnh áp dụng quy trình minh bạch trong tiếp nhận, phân bổ, giám sát và đánh giá viện trợ. 100% dự án được đánh giá “Tốt” hoặc “Khá”. Hà Giang cũng lồng ghép truyền thông viện trợ với quảng bá hình ảnh địa phương, tăng cường đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng, từ đó tạo ra một hệ sinh thái viện trợ bền vững, có sự tham gia của người dân.

Bảng: Tình hình thu hút và sử dụng viện trợ PCPNN của một số tỉnh (2014-2023)

Tỉnh

Tổ chức PCPNN

Tổng giá trị viện trợ (triệu USD)

Tỷ trọng sinh kế (%)

Đặc điểm nổi bật

Hà Giang

74

43,6

18

Xây dựng bản đồ ưu tiên viện trợ, cơ chế minh bạch

Cao Bằng

61

24

26

Chuỗi giá trị nông nghiệp, hợp tác xã hữu cơ

Vĩnh Phúc

25

13,2

12

Kết nối liên vùng, lồng ghép hiệu quả

Hòa Bình

43

22

15

Nước sạch, đào tạo cán bộ, trạm thông tin cộng đồng

Điện Biên

50

20

22

PPP hiệu quả, tập trung dân tộc thiểu số

Nguồn: Sở Ngoại vụ các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Điện Biên [3]

Cao Bằng – Gắn kết sinh kế với thị trường

Cao Bằng tập trung phát triển mô hình sinh kế nông nghiệp gắn với thị trường. Tính đến năm 2024, tỉnh tiếp nhận 148 chương trình với tổng viện trợ 27,8 triệu USD, trong đó 26% dành cho sinh kế và giảm nghèo. Tỉnh ban hành các quy chế quản lý viện trợ, thiết lập hệ thống giám sát độc lập và tổ chức đào tạo cán bộ thường xuyên. Cao Bằng cũng đẩy mạnh đối ngoại nhân dân, mở rộng hợp tác với các tổ chức như: JICA, KOICA, VVOB... Các dự án ngày càng hướng tới phát triển bền vững, bao phủ nhiều lĩnh vực như: giáo dục, môi trường, y tế và bảo vệ trẻ em.

Vĩnh Phúc – Lồng ghép hiệu quả và đối thoại chính sách

Dù có quy mô viện trợ khiêm tốn (13,2 triệu USD từ 2014–2023), Vĩnh Phúc nổi bật với cách tiếp cận bền vững và hiệu quả. Viện trợ tập trung vào đào tạo nghề, bảo vệ môi trường và phát triển hạ tầng xã hội. Nhiều dự án như của VVOB, ChildFund đã hỗ trợ đào tạo nghề cho phụ nữ và thanh niên nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và giảm áp lực di cư. Tỉnh xây dựng mô hình “đối thoại chính sách đa cấp”, tạo không gian hợp tác hiệu quả và giám sát chặt chẽ giữa các bên. Các chương trình viện trợ đã giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện chỉ số phát triển con người, và thay đổi hành vi sản xuất – tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường. Đồng thời, tỉnh chú trọng kiểm soát rủi ro, đảm bảo mọi khoản viện trợ phù hợp với pháp luật và an ninh quốc gia.

Hòa Bình – Đồng bộ và phát triển toàn diện

Từ năm 2014–2024, Hòa Bình tiếp nhận gần 22 triệu USD từ 43 tổ chức PCPNN, với trọng tâm là nước sạch – vệ sinh môi trường (32%) và đào tạo cán bộ cơ sở (15%). Tỉnh không chỉ xây dựng hạ tầng như công trình cấp nước và nhà tiêu hợp vệ sinh, mà còn kết hợp truyền thông nâng cao nhận thức. Một sáng kiến tiêu biểu là “trạm thông tin cộng đồng”, giúp người dân phản hồi và giám sát hiệu quả dự án. Đặc biệt, tỷ lệ dự án có chương trình đào tạo đi kèm tại Hòa Bình thuộc hàng cao nhất khu vực. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở được nâng cao năng lực, từ đó chủ động vận hành dự án, giảm phụ thuộc vào bên ngoài. Các dự án tại Hòa Bình mang tính tích hợp, bao phủ đa lĩnh vực, từ sinh kế, giáo dục, môi trường đến du lịch cộng đồng. Tỉnh cũng duy trì cơ chế kiểm soát rủi ro, phòng chống các yếu tố can thiệp chính trị hay vi phạm pháp lý.

Điện Biên – Tận dụng mô hình hợp tác công – tư

Là một trong những tỉnh khó khăn nhất, Điện Biên đã thể hiện năng lực vượt trội trong thu hút viện trợ với tổng giá trị 27,2 triệu USD trong giai đoạn 2014–2023. Đặc biệt, tỉnh đã vận dụng mô hình hợp tác công – tư (PPP) hiệu quả, kết hợp chính quyền – NGO – doanh nghiệp. Tại các huyện nghèo, như: Mường Nhé, Tủa Chùa, các dự án viện trợ tập trung vào giáo dục, y tế và sinh kế cho đồng bào dân tộc. Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng 12% trong 5 năm; thu nhập hộ nghèo tham gia dự án tăng từ 8 triệu lên hơn 15 triệu đồng/năm. Tỉnh đã ban hành 4 chương trình vận động viện trợ trong các giai đoạn khác nhau, xác định rõ địa bàn và lĩnh vực ưu tiên. Hệ thống giám sát thực hiện chặt chẽ, kết hợp kiểm tra định kỳ và phản hồi từ cộng đồng. Bên cạnh đó, tỉnh thường xuyên tổ chức tập huấn về chính sách viện trợ, giúp cán bộ và người dân hiểu đúng, phối hợp hiệu quả hơn trong quá trình triển khai dự án.

BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI PHÚ THỌ TRONG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN VIỆN TRỢ PCPNN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN SINH KẾ CỦA HỘ NGHÈO

Trong bối cảnh nguồn viện trợ PCPNN đang có xu hướng giảm và ngày càng cạnh tranh, việc nâng cao hiệu quả vận động, thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ trở thành một nhiệm vụ then chốt trong chính sách phát triển bền vững tại các địa phương, trong đó có tỉnh Phú Thọ. Kinh nghiệm từ các tỉnh miền núi phía Bắc cho thấy, thành công trong thu hút và sử dụng hiệu quả viện trợ PCPNN phụ thuộc vào chiến lược rõ ràng, cơ chế minh bạch, năng lực thực thi và sự tham gia của cộng đồng. Một số bài học thực tiễn có thể rút ra cho tỉnh Phú Thọ như sau:

Thứ nhất, chủ động xây dựng danh mục vận động và ưu tiên hóa theo địa bàn. Kinh nghiệm từ tỉnh Hà Giang cho thấy, việc ban hành kế hoạch vận động viện trợ PCPNN hàng năm, trong đó đính kèm bản đồ ưu tiên hóa theo từng huyện, xã đặc biệt khó khăn có thể giúp định hướng rõ ràng cho các tổ chức quốc tế. Với tổng giá trị viện trợ lên tới 43,6 triệu USD trong giai đoạn 2014-2023, Hà Giang đã duy trì mức tăng trưởng bình quân viện trợ đạt trên 4 triệu USD/năm, trong đó hơn 60% tập trung vào các huyện vùng cao. Do đó, tỉnh Phú Thọ cần xây dựng Danh mục đề xuất vận động viện trợ PCPNN theo từng lĩnh vực ưu tiên, như: sinh kế, y tế, giáo dục, môi trường…, kết hợp bản đồ hóa nhu cầu viện trợ theo các xã thuộc diện 30a, đặc biệt khó khăn như Xuân Đài (Tân Sơn), Hưng Long (Yên Lập), Đồng Sơn (Tân Sơn) [2].

Thứ hai, lồng ghép viện trợ PCPNN với các chương trình mục tiêu quốc gia. Hòa Bình và Điện Biên đã triển khai hiệu quả việc lồng ghép viện trợ PCPNN với Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và các chương trình phục hồi sinh kế sau thiên tai. Tại Hòa Bình, gần 55% số dự án PCPNN giai đoạn 2014-2023 được tích hợp với các chương trình của Nhà nước, giúp tối ưu hóa nguồn lực và tránh chồng chéo. Do đó tỉnh Phú Thọ cần xây dựng quy chế phối hợp giữa các bên liên quan, giữa Sở Ngoại vụ và Ban điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó quy định rõ về quy trình tiếp nhận, rà soát và phân bổ viện trợ theo hướng lồng ghép, đồng bộ với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm hạn chế tình trạng “cát cứ” trong tiếp nhận và sử dụng vốn viện trợ mà nhiều địa phương đã gặp phải.

Thứ ba, tăng cường minh bạch, giám sát cộng đồng và đối thoại chính sách. Kinh nghiệm từ Thái Nguyên và Vĩnh Phúc cho thấy, việc thiết lập hệ thống giám sát cộng đồng và tổ chức đối thoại định kỳ giữa chính quyền và các tổ chức PCPNN là chìa khóa nâng cao hiệu quả quản lý dự án và tăng tính minh bạch. Ở Thái Nguyên, các xã thực hiện giám sát cộng đồng có tỷ lệ người dân hài lòng với các dự án PCPNN cao hơn 20%-25% so với các xã không có cơ chế giám sát này. Do đó, Phú Thọ cần xây dựng một cổng thông tin điện tử chuyên biệt về viện trợ PCPNN, tích hợp thông tin về tiến độ dự án, báo cáo tài chính, kết quả thực hiện. Đồng thời, mỗi năm tổ chức ít nhất 2 đợt đối thoại giữa các bên liên quan và đại diện cộng đồng hưởng lợi, nhằm giải trình, tiếp nhận phản hồi và nâng cao đồng thuận xã hội.

Thứ tư, đa dạng hóa đối tác và phương thức hợp tác. Cao Bằng và Hà Giang đã thành công trong vận động các doanh nghiệp xã hội, viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước tham gia vào các chương trình viện trợ, như khởi nghiệp thanh niên, phát triển nông nghiệp hữu cơ, chuỗi giá trị sản phẩm địa phương. Chẳng hạn, tại huyện Bảo Lâm (Cao Bằng), chương trình “Thúc đẩy chuỗi giá trị cây hồi và dược liệu” có sự phối hợp của tổ chức GRET (Pháp) và doanh nghiệp địa phương, đã giúp hơn 1.500 hộ dân tăng thu nhập 25%-30% trong vòng 3 năm (2019-2021). Do đó tỉnh Phú Thọ cần đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức đang hoạt động tích cực trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững, giáo dục vùng dân tộc thiểu số, như SNV (Hà Lan), ChildFund, VVOB (Bỉ)… Việc kết nối này sẽ mở rộng phạm vi dự án, đồng thời phát triển các chuỗi giá trị bền vững, như: chè trung du, cam Đoan Hùng, măng tre Bạch Hạc - các sản phẩm thế mạnh của tỉnh.

Thứ năm, tăng cường đào tạo năng lực cán bộ tuyến cơ sở. Khảo sát của tỉnh Thái Nguyên và Điện Biên năm 2022 cho thấy, trên 60% cán bộ xã - phường thiếu kiến thức về lập đề xuất và quản lý dự án viện trợ; nhiều cán bộ chưa hiểu rõ thủ tục pháp lý để phối hợp với tổ chức quốc tế. Đây là rào cản chính khiến các địa phương không chủ động trong tiếp cận nguồn viện trợ. Do đó tỉnh Phú Thọ cần tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề về: (i) Lập đề xuất dự án viện trợ phi chính phủ; (ii) Quản lý tài chính - hành chính với nguồn viện trợ; (iii) Kỹ năng vận động, báo cáo và giải trình kết quả với nhà tài trợ; (iv) Gắn kết với chương trình thực tập, chia sẻ mô hình thành công từ các tỉnh bạn. Đồng thời, phối hợp với các cơ sở đào tạo, như: Học viện Ngoại giao, Học viện Hành chính Quốc gia để nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ tuyến huyện, xã./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014, 2015). Chính sách huy động nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong bối cảnh hậu ODA và tác động tới Việt Nam, Tham luận tại Hội thảo đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam tại Đà Nẵng.

2. Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ, Hà Giang, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Điện Biên (2014-2024). Niên giám Thống kê tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Điện Biên từ năm 2014 đến năm 2024, Nxb Thống kê.

3. Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ, Hà Giang, Cao Bằng, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Điện Biên (2023, 2024). Báo cáo về chương trình vốn viện trợ phi chính phủ giai đoạn 2010-2023.

Ngày nhận bài: 03/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 19/6/2025; Ngày duyệt đăng: 23/06/2025