Phạm Châu Giang
Tập đoàn VinaCapital
Email: phamchaugiang81@gmail.com
Tóm tắt
Thời gian qua, Việt Nam phải đối mặt với ngày càng nhiều cuộc điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại của các nước. Các cuộc điều tra này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu mà còn giảm uy tín, thương hiệu của hàng hóa Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm phân tích cơ sở khoa học và pháp lý của việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, từ đó góp phần định hướng xây dựng năng lực chủ động và phù hợp hơn cho các chủ thể liên quan trong thương mại quốc tế hiện nay.
Từ khoá: Chống lẩn tránh, phòng vệ thương mại, xuất nhập khẩu, xuất xứ, WTO, ứng phó
Summary
Vietnam has recently been facing an increasing number of trade remedies anti-circumvention investigations by many countries. These investigations not only affect export activities but also undermine the credibility and reputation of Vietnamese goods. This study aims to analyze the scientific and legal basis for activities to prevent and respond to investigations against trade remedies anti-circumvention, thereby contributing to building more proactive and appropriate capacity for relevant entities in current international trade status quo.
Keywords: Anti-circumvention, trade defense, import-export, origin, WTO, response strategies
GIỚI THIỆU
Các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, được hầu hết các quốc gia áp dụng trong chính sách điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa nhằm bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước khỏi những thiệt hại do hàng hóa nhập khẩu gây ra. Khi các biện pháp này có hiệu lực, một số nhà xuất khẩu tìm cách thay đổi hình thức thương mại nhằm né tránh nghĩa vụ thuế, từ đó phát sinh hiện tượng lẩn tránh biện pháp PVTM. Các hình thức lẩn tránh thường gặp như: chuyển tải qua nước thứ ba, sản xuất ở mức tối thiểu để thay đổi xuất xứ hoặc thay đổi mã hàng hóa… đã và đang tạo ra những thách thức đáng kể cho hệ thống thương mại quốc tế và cơ chế thực thi PVTM.
Việc điều tra và xử lý hành vi lẩn tránh thông qua áp dụng biện pháp PVTM ngày càng được các quốc gia quan tâm. Từ đó dẫn đến các nước xuất khẩu, trong đó có Việt Nam, cũng phải đối mặt với rủi ro gia tăng từ các cuộc điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Trong bối cảnh xu hướng điều tra chống lẩn tránh ngày càng gia tăng và phức tạp, việc bị áp dụng các biện pháp này có thể dẫn đến hệ quả nghiêm trọng, không chỉ với doanh nghiệp bị điều tra, mà còn ảnh hưởng đến cả ngành hàng, thị trường và uy tín quốc gia. Do vậy, hiểu rõ cơ sở lý luận để nhận diện hành vi lẩn tránh cũng như cơ sở pháp lý của các cuộc điều tra, từ đó đề xuất một số khuyến nghị để phòng tránh và có kế hoạch ứng phó từ sớm không chỉ là yêu cầu trong quản lý xuất nhập khẩu, mà còn mang ý nghĩa chiến lược quan trọng để bảo vệ lợi ích kinh tế quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bảo đảm mục tiêu xuất nhập khẩu bền vững.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Khái niệm
Hành vi lẩn tránh biện pháp PVTM được hiểu là việc một bên liên quan tiến hành thay đổi hình thức giao dịch thương mại, sản xuất, gia công hoặc vận chuyển hàng hóa nhằm né tránh các nghĩa vụ phát sinh từ biện pháp PVTM đã được áp dụng trước đó đối với một sản phẩm hoặc nhà sản xuất nhất định. Tuy chưa có một định nghĩa thống nhất ở cấp độ toàn cầu, nhưng hành vi này thường bị xem là làm giảm hiệu quả thực thi và gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh thương mại công bằng.
Tại nhiều quốc gia, lẩn tránh biện pháp PVTM được định nghĩa thông qua các dấu hiệu và mục đích của hành vi. Ví dụ, theo pháp luật Mỹ, hành vi lẩn tránh được quy định là việc hoạt động thương mại được sắp xếp có chủ đích nhằm né tránh các nghĩa vụ thuế đang áp dụng đối với một sản phẩm, dù không thay đổi bản chất thương mại hoặc vật lý của sản phẩm đó. Trong khi đó, Liên minh châu Âu (EU) xác định, lẩn tránh là sự thay đổi trong mô hình thương mại giữa EU và các nước thứ ba hoặc giữa EU và các công ty riêng lẻ tại quốc gia đang bị áp dụng biện pháp mà sự thay đổi này bắt nguồn từ một thực tiễn, quy trình hoặc hoạt động không có nguyên nhân chính đáng hoặc lý do kinh tế đầy đủ nào ngoài việc né tránh nghĩa vụ thuế đang được áp dụng.
Các hành vi lẩn tránh
Các hành vi lẩn tránh có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và phức tạp, phổ biến nhất là những hành vi sau:
Chuyển tải qua nước/vùng lãnh thổ thứ ba: Hàng hóa có xuất xứ từ nước bị áp thuế được vận chuyển qua quốc gia không bị áp thuế, sau đó thay đổi giấy tờ để xuất khẩu sang nước nhập khẩu với xuất xứ mới. Hình thức này đặc biệt hay được sử dụng để xuất khẩu sang các nước không yêu cầu Giấy Chứng nhận xuất xứ (C/O) khi nhập khẩu.
Sản xuất với giá trị gia tăng tối thiểu tại nước thứ ba: Sản phẩm bị áp thuế được sản xuất một phần rất nhỏ (chẳng hạn chỉ đóng gói, dán nhãn, cắt khúc) để tạo căn cứ pháp lý thay đổi xuất xứ. Hình thức này đặc biệt phổ biến đối với nông sản hoặc sản phẩm công nghiệp nhẹ (giày dép, quần áo…).
Thay đổi Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa (mã HS) hoặc mô tả sản phẩm: Doanh nghiệp có thể cố tình thay đổi khai báo hải quan về hàng hóa để tránh rơi vào phạm vi áp thuế PVTM. Ví dụ, mặt hàng thép cuộn (thuộc Chương 72) sau khi được cắt khúc và đục lỗ có thể khai sang linh kiện máy móc thiết bị (thuộc Chương 85). Tinh vi hơn, doanh nghiệp có thể thay đổi kích thước sản phẩm từ phạm vi bị áp thuế (ví dụ, độ dày trên 2mm) thành phạm vi không bị áp thuế (độ dày 1,9mm).
Sử dụng các công ty liên kết hoặc trung gian: Thiết lập các công ty con hoặc nhà máy tại nước/vùng không bị áp thuế để hợp thức hóa giao dịch. Tuy nhiên, hình thức lẩn tránh này không dễ thực hiện do khả năng bị phát hiện cao và việc tìm một công ty có mức thuế thấp hơn để hợp tác cũng không đơn giản.
Mặc dù không phải tất cả các hành vi nêu trên đều bị coi là vi phạm quy định về xuất xứ và dán nhãn hàng hóa, nhưng khi các hành vi được thực hiện nhằm mục đích né tránh nghĩa vụ thuế, đặc biệt khi không làm thay đổi bản chất kinh tế của sản phẩm, thì khả năng bị điều tra chống lẩn tránh PVTM là rất cao. Do đó, về bản chất, lẩn tránh biện pháp PVTM đôi khi là “vô tình” vi phạm quy định, trong khi gian lận về xuất xứ là hành vi “cố tình” né tránh việc bị áp thuế. Chính vì vậy, việc nhận diện chính xác và sớm các hành vi có nguy cơ lẩn tránh là tiền đề quan trọng để các cơ quan quản lý và doanh nghiệp xây dựng chiến lược phòng tránh và ứng phó hiệu quả.
Các yếu tố phân tích khoa học phổ biến
Việc xác định một cơ sở sản xuất có phải là hoạt động lẩn tránh biện pháp PVTM hay không đòi hỏi sự kết hợp giữa phân tích định tính và định lượng, trong đó cơ sở khoa học lý luận đóng vai trò trung tâm. Do các hành vi lẩn tránh thường được thực hiện thông qua các thay đổi về hình thức giao dịch, phương thức sản xuất hoặc tổ chức thương mại, chứ không thay đổi bản chất hàng hóa, nên các cơ quan điều tra cần dựa vào bằng chứng cụ thể và các tiêu chí khách quan để đưa ra kết luận. Các yếu tố phân tích khoa học phổ biến bao gồm:
Phân tích dòng chảy thương mại trước và sau khi áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại
Một trong những chỉ báo khoa học quan trọng khi xem xét nguy cơ lẩn tránh biện pháp PVTM là sự thay đổi bất thường trong khối lượng và giá trị xuất khẩu của một sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm từ các nước/vùng lãnh thổ khác, sau khi biện pháp PVTM được áp dụng đối với sản phẩm gốc. Nếu dòng chảy thương mại cho thấy sự gia tăng đột biến từ một quốc gia không bị áp thuế, trong khi hoạt động sản xuất thực tế tại nước đó không thay đổi tương ứng, thì đây là dấu hiệu nghi ngờ của hành vi chuyển tải thương mại hoặc tái xuất có tính chất lẩn tránh.
Cơ quan điều tra thường sử dụng số liệu thống kê hải quan, dữ liệu thương mại song phương và các nguồn dữ liệu chính thức khác để phát hiện các thay đổi dòng chảy thương mại bất thường về khối lượng, giá cả và điểm đến của hàng hóa.
Phân tích bản chất sản phẩm và quy trình sản xuất
Việc thay đổi sản phẩm thông qua gia công đơn giản thường được sử dụng để né tránh nghĩa vụ nộp thuế. Tuy nhiên, nếu quy trình này không làm thay đổi cơ bản tính năng, công dụng hoặc mã HS của sản phẩm, thì về bản chất hàng hóa vẫn là sản phẩm gốc bị áp thuế. Do đó, cần sử dụng các công cụ phân tích kỹ thuật như kiểm nghiệm cấu trúc, phân tích thành phần vật lý hoặc đánh giá công đoạn sản xuất, giá trị gia tăng để xác định liệu sản phẩm đầu ra có khác biệt đáng kể với sản phẩm ban đầu hay không.
Kết luận về sự tương đồng bản chất hàng hóa là yếu tố khoa học quan trọng để chứng minh hành vi “thay đổi sản phẩm không đáng kể” nhằm mục đích né thuế.
Đánh giá mối quan hệ giữa các thực thể trong chuỗi thương mại
Hành vi lẩn tránh thường được thực hiện thông qua mạng lưới công ty con, đối tác gia công hoặc các doanh nghiệp thành lập mới tại nước thứ ba. Việc đánh giá quan hệ sở hữu, quản lý, chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan giúp xác định liệu có sự kiểm soát thực chất từ nhà xuất khẩu bị áp thuế hay không. Các phương pháp phân tích thường bao gồm: truy vết dòng vốn đầu tư và dòng hàng hóa; đánh giá hợp đồng gia công, nhượng quyền; so sánh mô hình hoạt động của công ty mới với công ty cũ.
Thông qua việc kết nối dữ liệu pháp lý, thương mại và tài chính, cơ quan điều tra có thể nhận diện hành vi tổ chức thương mại có chủ đích nhằm né tránh nghĩa vụ nộp thuế hay chỉ là mối quan hệ thương mại đơn thuần.
Phân tích tỷ lệ giá trị gia tăng và đóng góp sản xuất thực tế
Một tiêu chí phổ biến để xác định hành vi lẩn tránh là ngưỡng giá trị gia tăng (value-added threshold) trong quá trình sản xuất tại nước thứ ba. Nếu giá trị gia tăng không đáng kể (ví dụ dưới 25% tổng giá trị sản phẩm), thì hoạt động tại quốc gia đó có thể chỉ mang tính hình thức, không tạo ra sự thay đổi về bản chất kinh tế của sản phẩm. Điều này đặc biệt quan trọng trong phân tích các vụ việc sản xuất đơn giản hoặc tái chế.
Tỷ lệ giá trị gia tăng được tính toán dựa trên dữ liệu chi tiết về nguyên vật liệu đầu vào, chi phí lao động, chi phí vận hành và chi phí đóng gói - các yếu tố có thể kiểm chứng thông qua hồ sơ kế toán, hợp đồng mua bán, và hóa đơn sản xuất.
Đánh giá mức độ đầu tư của hoạt động sản xuất
Một số quốc gia như: Mỹ, Canada cũng như các nước EU đánh giá cả mức độ đầu tư vào hoạt động sản xuất để xác định một hàng hóa tạo ra từ một nhà máy là cố tình lẩn tránh biện pháp PVTM hay chỉ là một chuỗi đầu tư thông thường. Tuy nhiên, khó khăn khi xác định tiêu chí này là mức độ đầu tư của mỗi ngành hoàn toàn khác nhau, từ nông, lâm, thủy sản đến công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng. Do đó, việc xác định một tiêu chí chung trong đầu tư để xác định là hoạt động đầu tư thông thường hay đầu tư để lẩn tránh là bất khả thi.
Chính vì vậy, hiện nay các nước tương đối tùy tiện khi đánh giá tiêu chí này. Thậm chí, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) cũng sử dụng ngưỡng đánh giá khác nhau trong những vụ kiện có tính chất tương tự nhau (cùng nhóm sản phẩm, cùng quốc gia bị điều tra lẩn tránh).
Khi một sản phẩm xuất khẩu bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng biện pháp chống lẩn tránh, thông thường, mức thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp sẽ được mở rộng sang cả các doanh nghiệp và sản phẩm không trực tiếp bị điều tra ban đầu. Điều này dẫn đến nguy cơ mất thị trường đột ngột cho toàn ngành hàng, dù chỉ một số ít doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Trường hợp không phòng ngừa và chuẩn bị sớm sẽ khiến doanh nghiệp lúng túng trong việc đáp ứng yêu cầu điều tra, bị đánh giá là không hợp tác và phải chịu mức thuế cao nhất có thể (có những trường hợp lên đến hơn 150%).
Bên cạnh đó, các hành vi lẩn tránh, dù chỉ được thực hiện bởi một số doanh nghiệp đơn lẻ, nếu không được ngăn chặn kịp thời, có thể làm tổn hại đến uy tín hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam, khiến các thị trường nhập khẩu tăng cường kiểm tra, siết chặt điều kiện nhập khẩu hoặc áp dụng cơ chế giám sát đặc biệt. Trong một số vụ việc trước đây, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp bị nêu tên nghi ngờ có hoạt động lẩn tránh chỉ hơn 50 triệu USD trong khi kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng đó lên đến gần 200 triệu USD. Như vậy kim ngạch của các doanh nghiệp bị “kiện oan” lớn gấp 3 lần kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp có dấu hiệu lẩn tránh. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp mà còn làm gia tăng chi phí tuân thủ, kiểm định, vận chuyển, kéo dài thời gian thông quan và giảm khả năng cạnh tranh tổng thể.
QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI
Quy định chung của WTO
Hiện nay, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) không có hiệp định riêng hoặc điều khoản cụ thể nào điều chỉnh trực tiếp hoạt động điều tra chống lẩn tránh. Các Hiệp định như Hiệp định Chống bán phá giá (Anti-Dumping Agreement - ADA) hay Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (SCM Agreement) chỉ quy định về điều kiện áp dụng, thời hạn, thủ tục điều tra và nghĩa vụ thông báo trong vụ việc điều tra ban đầu, nhưng không bao gồm nội dung mở rộng biện pháp để chống lẩn tránh việc áp dụng các biện pháp PVTM. Chính vì thế, nhiều quốc gia đã tự đưa ra các quy định riêng của mình để xử lý vấn đề lẩn tránh thuế, trong đó nhiều nội dung có dấu hiệu lạm dụng và vượt khung WTO với mục đích bảo hộ sản xuất hơn là đơn thuần triệt tiêu các hành vi lẩn tránh.
Vì vậy, để thống nhất một khuôn khổ chung trong vấn đề này, ngay từ Vòng đàm phán Uruguay, cả EU và Mỹ đều cho rằng việc đưa quy định về chống lẩn tránh thuế vào Hiệp định về chống bán phá giá là một trong những ưu tiên hàng đầu của họ. Dù vậy, việc thống nhất các nội dung cơ bản vẫn chưa được nhận được sự đồng thuận. Do đó, các thành viên WTO đã chấp nhận ban hành một “Quyết định cấp Bộ trưởng” về vấn đề này như sau: “
Trong suốt quá trình đàm phán Doha, vấn đề này vẫn luôn là một trong các điểm nghẽn quan trọng và là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Vòng đàm phán Doha. Mặc dù vậy, nguyên tắc chủ quyền trong xây dựng luật nội địa cho phép các nước thành viên WTO có thể tiến hành điều tra chống lẩn tránh nếu biện pháp đó không vi phạm các nguyên tắc chung như: không phân biệt đối xử, minh bạch, hợp lý và có căn cứ thực tế. Việc này đã tạo tiền đề pháp lý để nhiều nước chủ động hình thành khung quy định riêng cho hoạt động điều tra chống lẩn tránh.
Quy định pháp luật của một số quốc gia
Một số quốc gia, khu vực như: Mỹ, EU, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Úc đã sớm xây dựng quy định pháp luật và tiến hành điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Pháp luật về chống lẩn tránh biện pháp PVTM của các nước này được tóm tắt như sau:
Mỹ: Bộ Thương mại Mỹ (DOC) có quyền tự khởi xướng hoặc tiếp nhận đề nghị, tiến hành quy trình điều tra khép kín với nhiều mốc thời gian rõ ràng và quyền tham gia đầy đủ của các bên liên quan. Khi kết luận là có lẩn tránh, DOC có quyền mở rộng thuế chống phá giá hoặc chống trợ cấp đến toàn bộ sản phẩm, quốc gia hoặc doanh nghiệp liên quan, đồng thời áp lệnh hoãn giải phóng hàng tại hải quan (Tariff Act 1930 (mục 781) - Đạo luật Thương mại 1988).
EU: EU định nghĩa lẩn tránh (circumvention) là hành vi thay đổi mô hình thương mại nhằm né tránh thuế, không có lý do kinh tế hợp lý ngoài việc tránh biện pháp đang có hiệu lực. Do đó, quy định của EU cho phép có ngoại lệ doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các nhà xuất khẩu hợp pháp thoát khỏi biện pháp mở rộng theo Điều 13 Quy định EU số 2016/1036 về chống bán phá giá và Điều 23 Quy định EU số 2016/1037 về chống trợ cấp.
Brazil: Quy định về xem xét hành vi lẩn tránh là sự thay đổi mô hình thương mại không có lý do kinh tế hợp lý ngoài việc né thuế, thông qua phân tích một số yếu tố sau: Phân tích tỷ lệ linh kiện từ nước bị áp thuế (≥ 60%), tỷ lệ giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất tại nước thứ ba hoặc tại Brazil (≤ 35%); Giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường theo điều tra gốc; Có sự gia tăng đột biến về khối lượng, giá trị nhập khẩu sau khi áp thuế.
Thổ Nhĩ Kỳ: Quy định của Thổ Nhĩ Kỳ tương tự với EU, đặc biệt về cách hiểu thay đổi mô hình thương mại không chính đáng làm căn cứ để mở rộng biện pháp. Dù không có chương riêng về chống lẩn tránh (anti-circumvention), luật và quy chế cho phép áp dụng các biện pháp mở rộng hoặc điều chỉnh biện pháp PVTM hiện hành đối với hành vi có dấu hiệu né tránh (Luật số 3577 ngày 14/6/1989).
Úc: Có định nghĩa rõ về các hình thức lẩn tránh (tương tự Hoa Kỳ) và cho phép điều tra tự khởi xướng hoặc theo đề nghị (Luật Hải quan 1901).
Việt Nam: Luật Quản lý ngoại thương quy định nguyên tắc áp dụng và mở rộng biện pháp PVTM để xử lý hành vi làm mất hiệu lực các biện pháp đang có hiệu lực. Điều 70 quy định về trách nhiệm của Bộ Công Thương trong việc điều tra, áp dụng, thay đổi, chấm dứt hoặc mở rộng các biện pháp PVTM.
KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Có thể thấy, việc điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM là hoạt động bình thường của rất nhiều cơ quan điều tra trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Theo thống kê của WTO, mỗi năm có khoảng 20-30 cuộc điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM được tiến hành, trong đó Mỹ chiếm gần một nửa số vụ việc tiến hành điều tra và Trung Quốc là nước bị điều tra lẩn tránh nhiều nhất (chiếm hơn một nửa số vụ điều tra toàn cầu). Trong bối cảnh chính sách bảo hộ leo thang, có thể dự báo các cuộc điều tra sẽ được khởi xướng ngày càng nhiều hơn, vừa để đảm bảo hiệu lực của các lệnh áp thuế đưa ra, vừa để bảo vệ ngành sản xuất của các nước trước áp lực cạnh tranh quốc tế.
Ngày 4/7/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp PVTM và gian lận xuất xứ”. Đây là văn bản định hướng chiến lược, lần đầu tiên đặt ra một cách toàn diện mục tiêu, giải pháp và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước nhằm tăng cường quản lý hành vi lẩn tránh PVTM và gian lận xuất xứ - 2 nguy cơ lớn đe dọa trực tiếp đến uy tín và lợi ích thương mại của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, từ Đề án đến các hoạt động cụ thể vẫn còn cần nhiều nỗ lực của cả các cơ quan quản lý và doanh nghiệp, vì mục tiêu chung là xuất khẩu bền vững.
Để có thể phòng tránh nguy cơ bị điều tra lẩn tránh PVTM, điều quan trọng trước tiên là phải xây dựng được một hệ thống cảnh báo sớm rủi ro PVTM, xác định cụ thể những mặt hàng có nguy cơ cao bị điều tra. Hệ thống cảnh báo cần được kết hợp giữa các tiêu chí định lượng như dòng chảy thương mại của nguyên vật liệu và thành phẩm giữa 3 nước có liên quan: nước điều tra, nước bị áp thuế, nước lẩn tránh và tiêu chí định tính (thông tin từ hệ thống cơ quan đại diện ngoại giao, thông tin từ các đối tác thương mại, động thái của ngành sản xuất nước điều tra). Từ đó, cần xây dựng khung chỉ số để tính toán được mức độ rủi ro bị điều tra lẩn tránh biện pháp PVTM đối với một số mặt hàng chủ lực.
Ngoài ra, cần tích cực tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp về mức độ nghiêm trọng của việc lẩn tránh thuế. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp vô tình tiếp tay cho hành vi lẩn tránh mà không hề nhận thức được nguy cơ bị điều tra và mất thị trường vĩnh viễn sẽ xảy ra với doanh nghiệp của mình. Cơ quan quản lý cũng cần có kế hoạch phối hợp với các hiệp hội ngành hàng tổ chức đào tạo cho doanh nghiệp để họ nhận diện được những dấu hiệu lẩn tránh thuế trong ngành của mình, tránh tình trạng bị vạ lây trong các cuộc điều tra của nước ngoài.
Về phía doanh nghiệp, cần khuyến khích nâng cao năng lực tuân thủ, minh bạch hóa chuỗi cung ứng, cải thiện quản trị xuất xứ và quy trình sản xuất. Việc chủ động tuân thủ quy định về xuất xứ, minh bạch thương mại sẽ góp phần nâng cao hình ảnh hàng hóa Việt Nam, duy trì niềm tin với đối tác nhập khẩu và cơ quan điều tra nước ngoài.
Bên cạnh hoạt động phòng tránh, việc chuẩn bị hồ sơ minh bạch về xuất xứ, quy trình sản xuất và kiểm soát chuỗi cung ứng từ đầu sẽ giúp doanh nghiệp nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của cơ quan điều tra nước ngoài, giảm nguy cơ bị áp thuế bất lợi hoặc bị loại khỏi cơ chế miễn trừ. Việc đầu tư từ đầu vào hệ thống kiểm soát nội bộ, lưu trữ dữ liệu, truy xuất nguồn gốc nguyên vật liệu và tổ chức quy trình sản xuất đúng chuẩn sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể chi phí xử lý hậu quả, tránh việc phải đàm phán thuế lại hoặc chấp nhận mất thị phần.
Từ góc độ thể chế, việc doanh nghiệp chủ động phòng ngừa và chuẩn bị sẵn sàng dữ liệu sẽ tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình hỗ trợ, xác minh và làm việc với cơ quan điều tra nước ngoài. Điều này góp phần giúp Việt Nam có thêm cơ sở để chứng minh không có hiện tượng lẩn tránh mang tính hệ thống, tạo điều kiện để đàm phán miễn trừ cho các doanh nghiệp tuân thủ, bảo vệ lợi ích quốc gia và giữ vững cam kết quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh thương mại quốc tế ngày càng phức tạp và xu hướng bảo hộ gia tăng, các biện pháp PVTM không chỉ dừng lại ở chống bán phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ, mà ngày càng mở rộng sang việc điều tra chống lẩn tránh. Đối với Việt Nam - quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn và hội nhập sâu rộng, việc nhận diện, phòng ngừa và ứng phó hiệu quả với điều tra chống lẩn tránh không chỉ là yêu cầu đối với doanh nghiệp mà còn là trách nhiệm của Nhà nước.
Qua nghiên cứu có thể thấy rằng, việc xây dựng cơ sở khoa học để nhận diện hành vi lẩn tránh là nền tảng quan trọng giúp cơ quan điều tra và doanh nghiệp hiểu rõ bản chất các hành vi thương mại biến tướng. Cùng với đó, hệ thống pháp lý quốc tế và quốc nội, đặc biệt là Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định 86/2025/NĐ-CP và Đề án 824, đã bước đầu tạo hành lang pháp lý và cơ chế phối hợp cần thiết để xử lý và ngăn chặn hiệu quả các hành vi lẩn tránh.
Tuy nhiên, để nâng cao năng lực thực thi và phòng ngừa hiệu quả hơn, cần tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, làm rõ các tiêu chí kỹ thuật trong xác định hành vi lẩn tránh, đồng thời nâng cao nhận thức và năng lực tuân thủ của doanh nghiệp. Chỉ khi kết hợp chặt chẽ giữa cơ sở khoa học, pháp lý và hành động thực tiễn, Việt Nam mới có thể chủ động bảo vệ lợi ích xuất khẩu, duy trì uy tín hàng hóa và vị thế trên thương trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Australian Anti-Dumping Commission (2025). Australia’s Anti-Dumping Framework - Chapter 2: Anti-circumvention provisions. Department of Industry, Science and Resources.
2. Bộ Công Thương (2019). Thông tư số 37/2019/TT-BCT ngày 29/11/2019 quy định chi tiết về trình tự, thủ tục điều tra, áp dụng, thay đổi, chấm dứt và rà soát các biện pháp phòng vệ thương mại.
3. Chính phủ (2025). Nghị định số 86/2025/NĐ-CP ngày 1/7/2025 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại.
4. EU (2016). Regulation 2016/1036 of the European Parliament and of the Council of 8 June 2016 on protection against dumped imports from countries not members of the European Union.
5. EU (2016). Regulation 2016/1037 of the European Parliament and of the Council of 8 June 2016 on protection against subsidised imports from countries not members of the European Union.
6. Government of Brazil - Ministério da Economia (2019). Anti-Circumvention Practices: Legal Framework and Investigation Procedures. [PDF Presentation].
7. Quốc hội (2017). Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14 ngày 12/6/2017.
8. Republic of Turkey (1989). Law No. 3577 on the Prevention of Unfair Competition in Imports and implementing regulations.
9. United States of America (1988). United States Code of Federal Regulations (19 CFR § 351.226) - Anti-circumvention investigations under U.S. anti-dumping and countervailing duty law.
10. WTO (1994). Agreement on Implementation of Article VI of the General Agreement on Tariffs and Trade 1994 (Anti-Dumping Agreement).
Ngày nhận bài: 8/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 6/8/2025; Ngày duyệt đăng: 7/8/2025 |