Nguyễn Xuân Bách
Kho bạc Nhà nước khu vực X
Email: nguyenxuanbachh@gmail.com
Tóm tắt
Quan điểm kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Với Sơn La, phát triển kinh tế tư nhân vừa tạo việc làm, tăng thu nhập, vừa là giải pháp tái cơ cấu kinh tế, khai thác lợi thế nông nghiệp, du lịch, năng lượng. Trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền 2 cấp, bài viết đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân, phân tích tác động quản lý mới và đề xuất giải pháp hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Từ khóa: Kinh tế tư nhân, chính quyền địa phương hai cấp, Nghị quyết số 68-NQ/TW, chính sách, tỉnh Sơn La
Summary
The view that the private sector is a key driver of the national economy continues to be emphasized in Resolution No. 68-NQ/TW dated May 4th, 2025, issued by the Politburo on private sector development. In Son La province, private sector development not only creates jobs and increases income but also serves as a strategic solution for economic restructuring and the effective utilization of local advantages in agriculture, tourism, and energy. In the context of implementing a two-tier local government model, this article evaluates the current state of the private economy, analyzes the impact of the new governance framework, and proposes institutional reforms aimed at improving competitiveness and supporting the province’s socio-economic development goals.
Keywords: Private economy, two-tier local government model, Resolution No. 68-NQ/TW, policy, Son La province
BỐI CẢNH THỰC HIỆN CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HAI CẤP CỦA TỈNH SƠN LA
Cùng với những định hướng chiến lược từ Trung ương, cải cách thể chế ở cấp địa phương đóng vai trò quyết định trong việc hiện thực hóa các chính sách. Việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã) từ tháng 7/2025 là một bước đi quan trọng trong nỗ lực này. Về bản chất, mô hình này nhằm sắp xếp lại bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, giảm bớt các tầng nấc trung gian (cấp huyện), đảm bảo bộ máy vận hành thông suốt, ổn định và hiệu quả.
Quan trọng hơn, mục tiêu của cải cách không chỉ là tinh giản biên chế mà còn là chuyển mạnh cấp cơ sở sang chủ động nắm, điều hành kinh tế - xã hội. Điều này có nghĩa là chính quyền cấp xã/phường sẽ được trao nhiều quyền hạn và trách nhiệm hơn trong việc giải quyết các vấn đề của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn. Tác động kỳ vọng của mô hình này đối với môi trường kinh doanh là rất lớn. Khi cấp cơ sở được chủ động hơn, các thủ tục hành chính (TTHC) liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh (vốn chiếm đa số tại Sơn La) có thể được xử lý nhanh chóng, thuận tiện hơn, không cần phải qua nhiều cấp phê duyệt.
Mối liên kết giữa 2 yếu tố chính sách này là vô cùng chặt chẽ. Mô hình chính quyền 2 cấp không nên được xem là một cải cách độc lập, mà chính là cơ chế hữu hiệu để các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết số 68-NQ/TW được triển khai hiệu quả tại địa phương. Để đạt được mục tiêu cắt giảm 30% thời gian giải quyết TTHC như Nghị quyết số 68-NQ/TW yêu cầu, cần một bộ máy cấp cơ sở năng động, hiệu quả và được trao quyền. Mô hình chính quyền 2 cấp, bằng cách tăng tính chủ động và giảm bớt tầng nấc trung gian, chính là phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Mối quan hệ này là mối quan hệ giữa mục đích (Nghị quyết số 68-NQ/TW) và phương tiện (chính quyền 2 cấp), tạo thành một khung phân tích tổng thể để đánh giá chính sách phát triển kinh tế tư nhân tại Sơn La.
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TỈNH SƠN LA
Thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Sơn La giai đoạn 2020-2025
Giai đoạn 2020-2025 chứng kiến những biến động đáng kể trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Sơn La, đồng thời phản ánh những thách thức chung của cả nước và những nỗ lực riêng của địa phương. Sau giai đoạn bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 với mức tăng trưởng chậm lại vào năm 2021 (3,65%), nền kinh tế tỉnh Sơn La đã có sự phục hồi mạnh mẽ vào năm 2022 với tốc độ tăng trưởng GRDP ấn tượng đạt 8,71%, mức cao nhất trong giai đoạn 2018-2022. Mặc dù có sự điều chỉnh giảm vào năm 2023 (6,71%), mức tăng trưởng này vẫn thể hiện sự ổn định và nỗ lực của Tỉnh. Tỉnh Sơn La tiếp tục đặt ra các mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng cho năm 2024 (7,5%) và 2025 (8%), cho thấy quyết tâm cao trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (Hình 1).
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng GRDP tỉnh Sơn La giai đoạn 2020-2025
![]() |
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Thống kê và Cổng TTĐT tỉnh Sơn La
Song song với tăng trưởng kinh tế, số lượng doanh nghiệp tư nhân tại Sơn La cũng ghi nhận sự gia tăng liên tục và đáng kể - đã tăng từ 2.850 doanh nghiệp vào cuối năm 2020 lên 3.785 doanh nghiệp vào năm 2024, tức tăng hơn 1.000 doanh nghiệp chỉ trong vòng hơn 4 năm (Hình 2). Sự gia tăng này phản ánh tinh thần khởi nghiệp ngày càng cao và môi trường kinh doanh bước đầu có những cải thiện, thu hút các cá nhân, tổ chức tham gia vào thị trường.
Hình 2: Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động tại Sơn La giai đoạn 2021-2025
![]() |
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Thống kê và Cổng TTĐT tỉnh Sơn La
Phân tích Hình 1 và Hình 2 cho thấy một xu hướng tích cực khi cả tăng trưởng GRDP và số lượng doanh nghiệp đều có chiều hướng đi lên, đặc biệt từ sau năm 2021. Sự phục hồi mạnh mẽ của GRDP năm 2022 đi cùng với đà tăng của số lượng doanh nghiệp. Điều này cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng đóng góp quan trọng hơn vào tăng trưởng chung của Tỉnh. Dù vậy, câu hỏi về chất lượng tăng trưởng và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp mới thành lập vẫn cần được xem xét kỹ lưỡng hơn.
Bảng 1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La giai đoạn 2020-2024
Loại hình kinh tế | Năm 2020 | Năm 2021 | Năm 2022 | Năm 2023 | Năm 2024 |
---|---|---|---|---|---|
Kinh tế nhà nước (%) | 32,5 | 31,8 | 30,9 | 29,7 | 28,8 |
KTTN (%) | 45,2 | 46,1 | 47,3 | 48,9 | 50,1 |
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (%) | 22,3 | 22,1 | 21,8 | 21,4 | 21,1 |
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Sơn La
Số liệu Bảng 1 cho thấy tỷ trọng kinh tế tư nhân tăng đều qua các năm, từ 45,2% năm 2020 lên 50,1% năm 2024, trở thành thành phần kinh tế chủ lực của Tỉnh.
Hình 3: Tương quan tốc độ tăng trưởng GRDP và tăng trưởng số lượng doanh nghiệp tại Sơn La giai đoạn 2020-2025
![]() |
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Thống kê và Cổng TTĐT tỉnh Sơn La
Hình 3 cho thấy sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế chung đều có xu hướng tích cực. Đáng chú ý, năm 2023 ghi nhận tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp cao, trong khi tốc độ tăng trưởng GRDP lại có sự sụt giảm nhẹ so với năm 2022 trước khi tăng trở lại vào năm 2024. Điều này cho thấy sự phát triển của doanh nghiệp là một động lực quan trọng nhưng cũng có thể có độ trễ nhất định hoặc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế khác khi tác động đến tăng trưởng GRDP.
Đánh giá chất lượng môi trường kinh doanh qua Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
Mặc dù số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, chất lượng môi trường kinh doanh của Sơn La được đo lường qua Chỉ số PCI vẫn còn nhiều điểm cần cải thiện. Năm 2023, Sơn La xếp thứ 47/63 tỉnh, thành phố với 65,59 điểm. Dù đã tăng 2 bậc và 2.37 điểm so với năm 2022 (xếp thứ 49 với 63,22 điểm), vị trí này vẫn còn khá khiêm tốn và nằm trong nhóm trung bình của cả nước. Điều này cho thấy những nỗ lực cải cách của Tỉnh đã có kết quả ban đầu nhưng chưa đủ để tạo ra một bước đột phá thực sự. Phân tích sâu vào các chỉ số thành phần của PCI năm 2024 cung cấp một bức tranh chi tiết hơn về những điểm mạnh và điểm yếu trong công tác điều hành kinh tế của Tỉnh (Bảng 2).
Bảng 2: Phân tích chi tiết các chỉ số thành phần PCI của Sơn La năm 2024
Chỉ số thành phần | Điểm số (tháng 10) | Thay đổi so với 2023 | Phân tích và diễn giải |
---|---|---|---|
Gia nhập thị trường | 8,25 | Tăng | Điểm sáng vượt trội. Thời gian đăng ký doanh nghiệp đứng thứ 2 cả nước, tăng 60 bậc. Tỷ lệ doanh nghiệp không phải sửa đổi hồ sơ đứng thứ nhất cả nước. Cho thấy thủ tục thành lập doanh nghiệp đã rất thuận lợi. |
Tiếp cận đất đai | 5,93 | Giảm | Điểm nghẽn lớn nhất. Điểm số thấp cho thấy doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận mặt bằng sản xuất, thủ tục đất đai kéo dài, thiếu minh bạch. |
Tính minh bạch | 7,10 | Tăng | Có sự cải thiện, cho thấy nỗ lực của tỉnh trong việc công khai hóa thông tin, chính sách. |
Chi phí thời gian | 6,71 | Giảm | Cho thấy gánh nặng về thời gian để thực hiện các TTHC sau đăng ký kinh doanh vẫn còn, dù thủ tục gia nhập thị trường đã tốt. |
Chi phí không chính thức | 6,27 | Giảm | Vấn đề nhức nhối. Điểm số thấp phản ánh gánh nặng chi phí không chính thức vẫn còn tồn tại, làm tăng chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp. |
Cạnh tranh bình đẳng | 6,10 | Tăng | Có cải thiện nhưng điểm số vẫn thấp. Doanh nghiệp tư nhân vẫn cảm thấy có sự ưu ái cho doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp "sân sau", tạo ra một sân chơi chưa thực sự công bằng. |
Tính năng động của cơ quan | 5,29 | Giảm | Điểm số rất thấp, cho thấy chính quyền địa phương còn thiếu sự năng động, tiên phong, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề cho doanh nghiệp. |
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp | 7,01 | Giảm | Các chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và đi vào thực chất theo cảm nhận của doanh nghiệp. |
Đào tạo lao động | 6,43 | Tăng | Có sự cải thiện, nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn là một thách thức đối với tỉnh miền núi như Sơn La. |
Thiết chế pháp lý & an toàn trật tự | 7,91 | Tăng | Môi trường pháp lý và an ninh trật tự được doanh nghiệp đánh giá tương đối tốt, là một nền tảng quan trọng. |
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo PCI 2024
Từ Bảng 2 cho thấy một nghịch lý: trong khi số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh, phản ánh sự thành công của chỉ số "Gia nhập thị trường", thì chất lượng tổng thể của môi trường kinh doanh (phản ánh qua thứ hạng PCI và các chỉ số cốt lõi khác) lại chưa tương xứng. Điều này cho thấy một sự phát triển nghiêng về "bề rộng" hơn là "bề sâu". Việc thành lập một doanh nghiệp tại Sơn La đã trở nên dễ dàng, nhưng để doanh nghiệp đó tồn tại, hoạt động hiệu quả và phát triển lớn mạnh lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Các rào cản lớn về đất đai, chi phí không chính thức, và một sân chơi chưa thực sự bình đẳng đang kìm hãm tiềm năng phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân. Đây chính là những thách thức cốt lõi mà các chính sách mới cần phải tập trung giải quyết.
Chính sách phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Sơn La sau Nghị quyết 68-NQ/TW
Trên cơ sở những định hướng đột phá của Nghị quyết số 68-NQ/TW, tỉnh Sơn La đã thể hiện sự chủ động và quyết tâm cao trong việc cụ thể hóa các chủ trương của Trung ương. Minh chứng rõ nét nhất là việc UBND Tỉnh ban hành Kế hoạch số 154/KH-UBND ngày 7/7/2025 về phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Sơn La đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Kế hoạch số 154/KH-UBND đã bám sát và cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW, đặt ra những mục tiêu hết sức cụ thể và mạnh mẽ. Theo đó, đến năm 2030, Tỉnh phấn đấu có trên 5.000 doanh nghiệp; khu vực kinh tế tư nhân đóng góp tối thiểu 8% vào GRDP hàng năm và 25% vào tổng thu ngân sách Tỉnh. Tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu có trên 10.000 doanh nghiệp và kinh tế tư nhân đóng góp trên 60% GRDP, thực sự trở thành động lực chính của nền kinh tế Tỉnh. Các giải pháp đề ra trong kế hoạch cũng bao trùm toàn diện các khía cạnh mà Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh, từ cải cách thể chế, tạo thuận lợi tiếp cận nguồn lực (vốn, đất đai), đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Việc ban hành Kế hoạch số 154/KH-UBND chỉ 2 tháng sau Nghị quyết số 68-NQ/TW và gần như ngay sau khi mô hình chính quyền 2 cấp chính thức vận hành (1/7/2025) cho thấy một sự đồng bộ đáng ghi nhận trong chỉ đạo và điều hành. Điều này không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà phản ánh một ý chí chính trị mạnh mẽ, quyết tâm đưa các định hướng mới vào cuộc sống một cách nhanh chóng và thống nhất từ cấp tỉnh xuống cơ sở. Đây là một điểm tích cực, thể hiện năng lực phản ứng chính sách và quyết tâm cải cách của lãnh đạo tỉnh Sơn La.
Tuy nhiên, khi đối chiếu các mục tiêu của Kế hoạch số 154/KH-UBND với thực trạng, có thể thấy một khoảng cách không nhỏ. Với 3.942 doanh nghiệp vào tháng 7/2025, mục tiêu đạt trên 5.000 doanh nghiệp vào năm 2030 là khả thi. Nhưng mục tiêu kinh tế tư nhân đóng góp trên 60% GRDP vào năm 2045 là một thách thức rất lớn, đòi hỏi không chỉ sự gia tăng về số lượng mà phải là một bước nhảy vọt về chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong khi các chỉ số PCI hiện tại lại cho thấy điều ngược lại.
MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN CỦA TỈNH SƠN LA
Việc triển khai mô hình chính quyền 2 cấp từ tháng 7/2025, dù thời gian còn ngắn, đã bắt đầu cho thấy những tác động tích cực đến môi trường kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực cải cách TTHC. Theo ghi nhận ban đầu, bộ máy mới đã vận hành ổn định, đồng bộ ngay từ ngày đầu, đảm bảo hoạt động quản lý, phục vụ nhân dân không bị gián đoạn.
Cải cách thể chế này diễn ra song song và cộng hưởng với các nỗ lực cải cách hành chính (CCHC) chung của tỉnh. Giai đoạn 2021-2025, Sơn La đã quyết liệt đẩy mạnh CCHC, sắp xếp tinh gọn bộ máy, sáp nhập 499 bản thành 237 bản, giảm 262 bản. Kết quả là các chỉ số hiệu quả hoạt động được cải thiện rõ rệt: tỷ lệ hồ sơ giải quyết đúng hạn và trước hạn đạt 99,7%; 100% TTHC đủ điều kiện đã được cung cấp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến.
Những nỗ lực này đã được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận trực tiếp qua kết quả PCI 2024. Sự cải thiện ngoạn mục của chỉ số "Gia nhập thị trường" (tăng 60 bậc, đứng thứ hai cả nước) là minh chứng không thể rõ ràng hơn. Việc tinh gọn bộ máy và tăng cường phân cấp, trao quyền cho cấp cơ sở thông qua mô hình chính quyền 2 cấp đã trực tiếp góp phần rút ngắn thời gian, đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, hiện thực hóa mục tiêu "giảm chi phí thời gian" mà Nghị quyết số 68-NQ/TW đề ra. Đây là một minh chứng điển hình cho thấy, khi cải cách thể chế (mô hình 2 cấp) được thực hiện đồng bộ với cải cách TTHC, sẽ tạo ra những kết quả tích cực, có thể đo lường được.
Bên cạnh những thành tựu ban đầu, phân tích sâu dữ liệu PCI cho thấy, Sơn La vẫn đang đối mặt với những điểm nghẽn cố hữu, mang tính hệ thống, mà các cải cách hiện tại có thể chưa chạm tới được. Một số điểm nghẽ đáng kể thuộc các lĩnh vực sau:
Một là, tiếp cận đất đai. Đây được xác định là "điểm nghẽn lớn" và là nguyên nhân khiến nhiều kế hoạch kinh doanh bị hủy bỏ hoặc trì hoãn. Điểm số PCI cho chỉ số này liên tục ở mức thấp (5,93 điểm năm 2024), cho thấy vấn đề không chỉ nằm ở thời gian xử lý hồ sơ mà còn ở sự thiếu minh bạch trong quy hoạch, khó khăn trong giải phóng mặt bằng và sự phức tạp của các quy định liên quan.
Hai là, chi phí không chính thức và cạnh tranh bình đẳng. Các điểm số thấp của 2 chỉ số này (lần lượt là 6,27 và 6,10 năm 2024) chứng minh thực tế rằng gánh nặng "bôi trơn" và cảm giác về một sân chơi thiếu công bằng vẫn còn tồn tại. Doanh nghiệp tư nhân vẫn cảm thấy yếu thế khi cạnh tranh với các doanh nghiệp có "quan hệ tốt" hoặc doanh nghiệp nhà nước.
Bản chất của những điểm nghẽn này không đơn thuần là vấn đề TTHC mà còn là các vấn đề về quản trị công, liên quan đến sự minh bạch trong hoạch định chính sách, năng lực và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, hiệu quả của các cơ chế giám sát, phòng chống tham nhũng. Mô hình chính quyền 02 cấp, với việc tinh gọn bộ máy, có thể giúp một hồ sơ được xử lý nhanh hơn, nhưng nó không tự động làm cho cán bộ xử lý hồ sơ trở nên liêm chính hơn hay các quyết định về quy hoạch đất đai trở nên minh bạch hơn.
Do đó, một thách thức lớn đặt ra là các cải cách thể chế mang tính cấu trúc cần phải đi đôi với các cải cách về con người và cơ chế giám sát. Nếu không có những giải pháp mạnh mẽ hơn để tăng cường minh bạch, trách nhiệm giải trình và chống tham nhũng vặt, những điểm nghẽn cố hữu này sẽ tiếp tục là rào cản lớn nhất, kìm hãm sự phát triển bền vững và làm xói mòn niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp, bất chấp những nỗ lực cải thiện thủ tục bề mặt.
GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN CỦA TỈNH SƠN LA TRONG BỐI CẢNH THỰC HIỆN CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 2 CẤP
Trên cơ sở phân tích những mặt được, hạn chế của cơ chế, chính sách phát triển KTTN của tỉnh Sơn La, để tiếp tục thực hiện thành công tác mục tiêu trong phát triển KTTN tại tỉnh Sơn La, thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Đối với Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương
Xây dựng bộ chỉ số theo dõi việc thực thi Nghị quyết số 68-NQ/TW: Cần có một hệ thống đo lường thống nhất trên toàn quốc để đánh giá mức độ tiến bộ của các địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết 68-NQ/TW, từ đó tạo ra sự thi đua lành mạnh và có cơ sở để điều chỉnh chính sách kịp thời.
Nghiên cứu các chính sách đặc thù cho vùng khó khăn: Cần có các cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù hơn nữa về thuế, tín dụng, và hỗ trợ đầu tư hạ tầng để giúp các tỉnh miền núi như Sơn La, vốn có nhiều bất lợi về điều kiện tự nhiên và xuất phát điểm, có thể thu hút được các dự án đầu tư tư nhân quy mô lớn, có công nghệ cao và tạo tác động lan tỏa cho kinh tế địa phương.
Đối với tỉnh Sơn La
Thứ nhất, cần tập trung giải quyết các điểm nghẽn PCI một cách quyết liệt.
Về đất đai: Thành lập Tổ công tác đặc biệt của Tỉnh, do lãnh đạo UBND Tỉnh trực tiếp chỉ đạo, chuyên trách rà soát và xử lý dứt điểm những vướng mắc kéo dài về đất đai cho các dự án đầu tư của doanh nghiệp. Tận dụng lợi thế của mô hình chính quyền 2 cấp để yêu cầu 100% các xã, phường phải công khai hóa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết trên cổng thông tin điện tử và tại trụ sở, tăng cường sự giám sát của người dân và doanh nghiệp.
Về chi phí không chính thức và cạnh tranh bình đẳng: Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ đột xuất. Công khai đường dây nóng của Chủ tịch UBND Tỉnh để tiếp nhận và xử lý nghiêm các phản ánh của doanh nghiệp về hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn. Đảm bảo mọi thông tin về đấu thầu, đấu giá, tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước phải được công khai, minh bạch tuyệt đối.
Thứ hai, chuyển trọng tâm chính sách từ “hỗ trợ thành lập" sang "nâng cao năng lực". Xây dựng các chương trình hỗ trợ chuyên sâu, có mục tiêu rõ ràng, tập trung vào các lĩnh vực mà doanh nghiệp Sơn La đang yếu như: quản trị doanh nghiệp hiện đại, chuyển đổi số, marketing và xây dựng thương hiệu cho nông sản, tiếp cận các tiêu chuẩn xuất khẩu. Khuyến khích và hỗ trợ hình thành các cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, kết nối các doanh nghiệp tư nhân với nhau và với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước lớn để cùng phát triển.
Thứ ba, nâng cao vai trò thực chất của Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Sơn La. Giao Hiệp hội Doanh nghiệp Tỉnh chủ trì, phối hợp với một đơn vị tư vấn độc lập để thực hiện khảo sát đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ban, ngành và địa phương (DDCI) hàng năm. Kết quả DDCI phải được công bố rộng rãi và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả công việc của người đứng đầu các đơn vị. Tổ chức các buổi đối thoại chính sách định kỳ, thực chất giữa lãnh đạo tỉnh và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó các vấn đề được nêu ra phải được theo dõi, giám sát và có báo cáo công khai về kết quả giải quyết.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2017). Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5//2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
3. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám Thống kê tỉnh Sơn La.
4. UBND tỉnh Sơn La (2024). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2025.
Ngày nhận bài: 6/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 16/8/2025; Ngày duyệt đăng: 20/8/2025 |