TS. Trần Thị Thanh Thanh
Trường Đại học Tài chính – Kế toán
Tóm tắt
Nghiên cứu xác định các nhân tố tác động đến mức độ áp dụng báo cáo tích hợp trong các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam, đây là cơ sở để các bên liên quan đưa ra các chính sách và hàm ý nhằm thúc đẩy việc áp dụng báo cáo tích hợp tại Việt Nam. Nghiên cứu xác định 3 nhân tố tác động tích cực đến mức độ áp dụng báo cáo tích hợp tại Việt Nam, bao gồm: Áp lực của các cổ đông lớn; Áp lực từ đối thủ cạnh tranh; Áp lực do hoạt động trong các lĩnh vực nhạy cảm với môi trường; trong khi đó, yếu tố áp lực từ tổ chức cấp vốn lại tác động ngược chiều.
Từ khóa: Báo cáo tích hợp, cổ đông lớn, doanh nghiệp niêm yết, đối thủ cạnh tranh
Summary
This study identifies the factors influencing the extent of integrated reporting adoption among listed companies in Vietnam as a foundation for stakeholders to develop policies and recommendations that promote the adoption of integrated reporting in the country. The study finds three factors that positively impact the level of adoption: pressure from major shareholders, pressure from competitors, and pressure from engagement in environmentally sensitive industries. In contrast, pressure from funding organizations has a negative impact.
Keywords: integrated reporting, major shareholders, listed companies, competitors
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khuôn khổ báo cáo tích hợp (BCTH) quốc tế (IIRF) đầu tiên được công bố năm 2013, đến tháng 5/2021 bản sửa đổi đã được công bố. IIRF đã cung cấp một khái niệm hoàn chỉnh về BCTH. Theo IIRF, BCTH là một báo cáo tập hợp các thông tin quan trọng về chiến lược, quản trị, hiệu suất và triển vọng của một tổ chức trong bối cảnh thương mại, xã hội và môi trường mà nó hoạt động, cung cấp thông tin rõ ràng và súc tích về cách tổ chức quản trị và cách tổ chức tạo ra giá trị trong hiện tại và trong tương lai.
BCTH ngày càng được hỗ trợ bởi sự tăng trưởng về số lượng của các viện nghiên cứu, các Chính phủ, các tổ chức (KPMG, PWC, GRI…) và vai trò của BCTH ngày càng được thế giới ghi nhận. BCTH là làn sóng để thúc đẩy quá trình hội tụ quốc tế, đáp ứng được nhu cầu của thị trường chứng khoán và là một bước tiến đột phá hướng tới sự phát triển bền vững và minh bạch thông tin (Vitolla và Raimo, 2018).
Tại Việt Nam, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 155/2015/TT-BTC, sau đó là Thông tư số 96/2020/TT-BTC, đây là văn bản pháp lý đầu tiên yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) Việt Nam công bố thông tin về phát triển bền vững. Tuy vậy, những thông tin mà doanh nghiệp phải công bố theo quy định tại Việt Nam so với những chuẩn mực công bố thông tin tại các nước phát triển cũng chỉ mới dừng lại ở những thông tin cơ bản nhất (Nguyễn Thị Thu Hằng, 2019), điều này phần nào ảnh hưởng chất lượng thông tin công bố của doanh nghiệp khi hướng ra thị trường quốc tế. Trên thực tế, một số DNNY Việt Nam đã nhận thấy hạn chế trong việc công bố thông tin như hiện nay, theo đó, hướng đến cách thức công bố thông tin tự nguyện theo các chuẩn mực quốc tế, tuy nhiên, số doanh nghiệp áp dụng còn hạn chế. Những phát hiện về các yếu tố tác động được cho là có thể khuyến khích và thúc đẩy các DNNY Việt Nam áp dụng BCTH (Nguyen và cộng sự, 2021).
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Lý thuyết nền
Lý thuyết các bên liên quan đã thành công trong việc thách thức các khung phân tích thông thường, bằng cách đề xuất đưa các nhu cầu của các bên liên quan vào lúc bắt đầu bất kỳ hành động nào. Nhận thức ngày càng tăng về thông tin phi tài chính từ các bên liên quan đã khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng chương trình bền vững của họ. Báo cáo tích hợp bắt nguồn từ thông tin về tính bền vững là kết quả của hoạt động tài chính và phi tài chính ở tất cả các cấp. Sự thành công của các tổ chức trong chương trình thí điểm áp dụng BCTH của IIRC tạo động lực cho các doanh nghiệp khác trong việc công bố thông tin, giải quyết tốt nhất các nhu cầu thông tin của các bên liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc với một số chuyên gia (CEO, Kế toán trưởng, các giảng viên các trường Đại học), nhằm xác định các nhân tố và thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng BCTH trong các DNNY Việt Nam. Đối tượng khảo sát là BCTN của 189 DNNY Việt Nam có vốn hoá lớn và trung bình trong thời gian từ năm 2018 đến 2022. Số liệu thu thập được phân bằng phần mềm Stata 16.
Giả thuyết nghiên cứu
Cổ đông lớn là lực lượng hưởng lợi ích hoặc bất lợi rất lớn từ doanh nghiệp. Do đó, họ cần thông tin đa chiều hơn về doanh nghiệp, điều này buộc họ gây áp lực cho các doanh nghiệp trong việc công bố thông tin. Áp lực của cổ đông lớn được đo lường bằng tổng tỷ lệ cổ phần thuộc sở hữu của cổ đông lớn (> 5%), được kế thừa từ nghiên cứu của Juhmani (2013). Vì vậy, đưa ra giả thuyết:
H1: Tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn tác động cùng chiều đến mức độ áp dụng BCTH.
Cạnh tranh nảy sinh khi có nhiều hơn 2 doanh nghiệp hoạt động trong cùng một môi trường kinh doanh. Do tỷ lệ loại bỏ cao hơn, các doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện pháp tích cực hơn để duy trì vị trí của bản thân trong ngành. Lợi thế cạnh tranh thuộc về các doanh nghiệp thông tin cung cấp đầy đủ, đa chiều, đáp ứng được nhu cầu từ phía các nhà đầu tư. Áp lực của đối thủ cạnh tranh được đo bằng tỷ lệ doanh thu thuần của doanh nghiệp trên tổng doanh thu của ngành, kế thừa từ nghiên cứu của Huang và Kung (2010). Do đó đề xuất:
H2: Doanh nghiệp có thị phần cao tác động cùng chiều đến mức độ áp dụng BCTH.
Đòn bẩy là một cấu trúc tài chính của doanh nghiệp, được sử dụng để đo lường các rủi ro của doanh nghiệp trong việc hoàn trả các nghĩa vụ của mình. Các doanh nghiệp có mức độ đòn bẩy cao hơn sẽ gặp phải vấn đề về đại diện nghiêm trọng, do đó phải chịu chi phí đại diện cao hơn. Trong nỗ lực đáp ứng yêu cầu của các chủ nợ, các doanh nghiệp có đòn bẩy cao có nhiều khả năng tiết lộ thêm thông tin một cách tự nguyện. Áp lực từ các tổ chức tài trợ vốn được đo bằng tỷ lệ tổng nợ phải trả trên tổng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, kế thừa từ các nghiên cứu của Ghani và cộng sự. (2018). Do đó đề xuất:
H3: Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao tác động cùng chiều đến mức độ áp dụng BCTH.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường thường có những tác động xấu đến môi trường. Do đó, họ phải báo cáo thông tin về môi trường và sự tác động đến xã hội nhiều hơn so với các doanh nghiệp trong các ngành khác. Việc thất bại hoặc chậm trễ trong việc công bố thông tin môi trường có thể báo hiệu cho các bên liên quan của doanh nghiệp rằng, doanh nghiệp không tuân thủ các yêu cầu về môi trường, điều này có thể dẫn đến rủi ro kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp sẽ lựa chọn công bố thông tin môi trường qua BCTH để đáp ứng nhu cầu của tất cả các bên liên quan. Nghiên cứu đo lường áp lực do hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường kế thừa thang đo của Frías- Aceituno và cộng sự (2014). Do đó đề xuất:
H4: Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường tác động cùng chiều đến mức độ áp dụng BCTH.
Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở các giả thuyết nghiên cứu, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như Hình.
Hình: Mô hình nghiên cứu
![]() |
Nguồn: Đề xuất của tác giả
Nghiên cứu đo lường áp lực do hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường bằng cách xem xét lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp có thuộc các lĩnh vực nhạy cảm với môi trường hay không. Ngoài ra, nghiên cứu này thực hiện đo lường mức độ áp dụng BCTH (IR) trong doanh nghiệp theo cách đánh giá của Herath và Gunarathne (2016). Cụ thể, chỉ mục được công bố sẽ được gán điểm "1", nếu không công bố được gán là "0". Các điểm công bố được cộng lại, và cuối cùng chỉ số đo lường áp dụng BCTH được tính toán theo công thức như sau:
![]() |
Trong đó:
DI: Chỉ số công bố của DNNYi
di: Điểm tiêu chí của DNNYi (di = 1 nếu mục thông tin đó được công bố; di = 0 nếu mục thông tin được không được công bố)
m: Số lượng điểm mà DNNY i đã công bố trên các báo cáo
n: Số lượng điểm tối đa các mục được công bố theo IIRF (n= 78)
(Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Do đặc điểm dữ liệu phân tích là dữ liệu bảng, nên nghiên cứu đã sử dụng 3 mô hình nghiên cứu thực nghiệm: Pooled OLS, FEM, REM để kiểm định các nhân tố.
Để đánh giá sự phù hợp của mô hình, nghiên cứu đã căn cứ vào giá trị F statistic và R2 điều chỉnh đối với mô hình Pooled OLS và FEM, căn cứ vào Wald Chi2 và R2 điều chỉnh đối với mô hình REM. Kết quả kiểm định được thể hiện qua Bảng 1:
Bảng 1: Kết quả kiểm định 3 mô hình OLS, REM, FEM
Kiểm định | Pooled OLS | REM | FEM |
F statistic/ Wald Chi2 | F (4, 559) = 207.81 Prob > F = 0.0000 | Wald chi2(4) = 919.60 Prob > chi2 = 0.0000 | F (4, 371) = 62.58 Prob > F = 0.0000 |
R2 điều chỉnh. | 0.7189 | 0.7118 | 0.6946 |
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả kiểm định Hausman – Test với Prob > chi2 = 0.0238, cho thấy mô hình FEM phù hợp với mẫu dữ liệu hơn so với mô hình REM.
Bảng 2: Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp FGLS
Chỉ số | Hệ số hồi quy | Mức ý nghĩa |
Prob > chi2 | 0.000 (***) | |
SHAPRE | 0.0002 | 0.001 (***) |
COMPI | 0.1501 | 0.000 (***) |
CREDIT | - 0.1867 | 0.000 (***) |
ENVIPRE | 0.0362 | 0.000 (***) |
Hằng số | 0.5849 | 0.000 (***) |
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả phân tích cho thấy, các yếu tố đều tác động đến mức độ áp dụng BCTH với mức ý nghĩa 5%, do đó phương trình hồi quy mô hình nghiên cứu có dạng:
IR = 0.5849 + 0.0002 * SHAPRE + 0.1501* COMPI - 0.1867 * CREDIT + 0.0362 * ENVIPRE
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Áp lực từ các cổ đông lớn có tác động tích cực đến mức độ áp dụng BCTH tại doanh nghiệp. Các cổ đông lớn vì lợi ích của mình đã yêu cầu công bố thông tin nhiều hơn, dưới áp lực của các cổ đông lớn, các DNNY tại Việt Nam buộc phải công bố thông tin nhiều hơn nhằm giảm tải sự bất cân xứng thông tin.
Áp lực từ đối thủ cạnh tranh tác động tích cực đến mức độ áp dụng BCTH tại doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, nhà đầu tư đã có sự so sánh khi chọn lựa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, đặc biệt các doanh nghiệp có thị phần tương đương nhau. Lợi thế cạnh tranh lúc này sẽ thuộc về các doanh nghiệp mà thông tin cung cấp đầy đủ, đa chiều đáp ứng được nhu cầu từ phía các nhà đầu tư.
Áp lực từ tổ chức cấp vốn: Các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ càng cao càng ít áp dụng BCTH. Điều này được giải thích bởi lý do, về phía doanh nghiệp vì tỷ lệ nợ khá lớn, nên muốn che đậy vấn đề này. Trong khi đó, có thể các tổ chức cấp vốn có một mối quan tâm khác, hoặc phân tích vấn đề theo một cách khác mà không dựa vào thông tin phi tài chính.
Áp lực do hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường: Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường tác động tích cực đến mức độ áp dụng BCTH tại doanh nghiệp. Việc thất bại hoặc chậm trễ trong việc công bố thông tin môi trường có thể báo hiệu cho các bên liên quan của doanh nghiệp rằng, doanh nghiệp không tuân thủ các yêu cầu về môi trường, điều này có thể dẫn đến rủi ro kinh doanh. Do đó, họ sẽ lựa chọn công cụ tốt nhất để công bố thông tin nhằm đưa ra tín hiệu tốt cho các bên liên quan.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu nghiên cứu cho thấy, các bên liên quan ngày càng đặt niềm tin vào các doanh nghiệp có mức độ và chất lượng công bố thông tin cao, đặc biệt công bố thông tin thông qua BCTH. Trong bối cảnh này, các DNNY Việt Nam cần thay đổi dần tư duy cũng như nhận thức về vấn đề áp dụng công bố BCTH, bắt đầu từ ban quản trị cấp cao, sau đó tạo ra nhận thức nội bộ bằng cách xem công bố BCTH như một cách báo cáo năng động và thu hút tất cả các bên liên quan tham gia vào việc tạo ra lộ trình nhiều năm cho tổ chức./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ghani, E. K., Jamal, J., Puspitasari, E. and Gunardi, A. (2018). Factors influencing integrated reporting practices among Malaysian public listed real property companies: A sustainable development effort. International Journal of Managerial and Financial Accounting, 10, 144-162.
2. Herath, R. and Gunarathne, N. (2016). Assessing the gap between integrated reporting and current integrated corporate reporting practice: a proposed checklist. 11th Faculty of Management Studies and Commerce (FMSC) Research Symposium.
3. Huang, C. L. and Kung, F. H. (2010). Drivers of environmental disclosure and stakeholder expectation: Evidence from Taiwan. Journal of business ethics, 96, 435-451.
4. Juhmani, O. I. (2013). Ownership structure and corporate voluntary disclosure: Evidence from Bahrain. International Journal of Accounting and Financial Reporting, 3, 133.
5. Nguyễn Thị Thu Hằng (2019). Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến áp dụng báo cáo tích hợp tại các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận án tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
6. Nguyen, H. C., Nguyen, P. M. H., Tran, B. H., Nguyen, T. T. N., Hoang, L. T. T. and Do, T. T. H. (2021). Integrated reporting disclosure alignment levels in annual reports by listed firms in Vietnam and influencing factors. Meditari Accountancy Research, 30, 1543-1570.
7. Vitolla, F. and Raimo, N. (2018). Adoption of integrated reporting: Reasons and benefits—A case study analysis. International Journal of Business and Management, 13, 244-250.
8. Frias‐Aceituno, J. V., Rodríguez‐Ariza, L. and Garcia‐Sánchez, I. M. (2014). Explanatory factors of integrated sustainability and financial reporting. Business strategy and the environment, 23, 56-72.
Ngày nhận bài: 06/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/6/2025; Ngày duyệt đăng: 19/6/2025 |