Xây dựng nông thôn mới: Những vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục

việc đánh giá những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng nông thôn mới là rất cần thiết để qua đó có những định hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình.

TS. Lương Thanh Hà

Học viện Ngân hàng

Email: halt@hvnh.edu.vn

Tóm tắt

Xây dựng nông thôn mới không chỉ là yêu cầu bức thiết, mà còn là động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bài viết khái quát thực trạng xây dựng nông thôn mới ở nước ta trong thời gian qua, đặc biệt, chỉ ra những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện chương trình này. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng nông thôn mới, qua đó thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh mẽ.

Từ khóa: Nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, hạn chế

Summary

New rural construction is not only an urgent requirement but also a driving force for the industrialization and modernization of agriculture and rural regions. This article provides an overview of the current state of new rural construction in Vietnam in recent years, with a particular focus on identifying the difficulties and limitations encountered during its implementation. Based on this analysis, the article proposes several solutions to enhance the effectiveness of new rural construction, thereby promoting robust growth in agriculture and rural areas.

Keywords: Agriculture, rural areas, new rural construction, limitations

ĐẶT VẤN ĐỀ

Xây dựng nông thôn mới được Đảng và Nhà nước xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kể từ năm 2010, Việt Nam đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Chương trình đã làm thay đổi nhận thức của đa số người dân, lôi cuốn họ vào xây dựng nông thôn mới. Từ chỗ số đông còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước đã chuyển sang chủ động, tự tin tham gia tích cực vào xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sôi động khắp cả nước. Hơn nữa, Việt Nam đã hình thành bộ máy chỉ đạo và tham mưu giúp việc đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, là nòng cốt tổ chức thực hiện chương trình với hiệu quả cao. Đội ngũ cán bộ vận hành chương trình, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở đã có tiến bộ rõ rệt, nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo chương trình có hiệu quả hơn, nhất là trong việc xây dựng dự án, vận động quần chúng và tổ chức, thực hiện dự án, thực hành dân chủ ở nông thôn.

Tuy vậy, công cuộc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam cũng gặp phải một số hạn chế nhất định, do xuất phát điểm của đa số các xã còn thấp, trong khi nguồn lực của cả Nhà nước, người dân và doanh nghiệp đều còn thiếu và yếu, nhất là ở các địa phương miền núi. Cũng không phủ nhận trong thực tế, nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân về xây dựng nông thôn mới chưa cao, vẫn còn có tư tưởng thụ động, trông đợi vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nhất là từ ngân sách trung ương. Do đó, việc đánh giá những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng nông thôn mới là rất cần thiết để qua đó có những định hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình.

KẾT QUẢ THỰC HIỆN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Việt Nam đã có bước tiến dài trong xây dựng nông thôn mới. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 6/2025, cả nước đã có 6.058/7.696 xã (tương đương 78,7%) đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành 98,4% mục tiêu của cả giai đoạn 2021-2025. Trong đó, 2.446 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (40,4%) và 655 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (10,8%). Đáng chú ý, 1.508 thôn, bản đặc biệt khó khăn cũng đã được công nhận đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ 43%.

Đời sống người dân nông thôn được cải thiện rõ rệt. Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt khoảng 54 triệu đồng/năm, tăng 1,3 lần so với năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm còn 1,93%, khu vực nông thôn giảm xuống khoảng 3,1%; vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm bình quân 3%–4%/năm.

Giai đoạn 2021-2025, diện mạo nông thôn thay đổi toàn diện, chuyển từ phát triển số lượng sang chất lượng, từng bước hiện đại hơn. Đặc biệt, người dân không còn thụ động hưởng thụ mà đã coi xây dựng nông thôn mới là quyền lợi và trách nhiệm.

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) trở thành điểm nhấn thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Đến tháng 2/2025, cả 63 tỉnh, thành phố đã triển khai kế hoạch phát triển sản phẩm OCOP, với 16.500 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên.

Bên cạnh kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần và an ninh nông thôn cũng có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nông thôn văn minh, hạnh phúc và giàu bản sắc.

NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC

Bên cạnh những kết quả tích cực trên, quá trình xây dựng nông thôn mới cũng gặp một số khó khăn nhất định:

Thứ nhất, cơ chế chính sách và văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới như: cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; quy định về quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách trung ương thực hiện chương trình... sau khi ban hành đã bộc lộ một số bất cập, gây khó khăn, vướng mắc cho các địa phương trong triển khai thực hiện. Một số địa phương chậm cụ thể hóa các tiêu chí nông thôn mới theo phân cấp.

Thứ hai, nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách trung ương phân bổ chậm; tiến độ giải ngân kế hoạch vốn ngân sách trung ương còn chậm so với yêu cầu; khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp không cao. Đặc biệt, tỷ lệ vốn đối ứng của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới rất cao, trong khi việc huy động nguồn lực của người dân và doanh nghiệp hạn chế, nhất là tại các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo cao. Thực tế vốn huy động của người dân và cộng đồng chủ yếu là từ ngày công lao động và hiến đất làm đường. Trong khi đó, việc thống kê nguồn vốn huy động này cũng chưa có sự hướng dẫn, thống nhất.

Cùng với đó, cơ chế lồng ghép nguồn vốn ngân sách trung ương của các chương trình mục tiêu quốc gia để hỗ trợ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn, các huyện nghèo còn rất hạn chế, chưa thực sự hiệu quả. Một số địa phương vẫn còn tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản.

Thứ ba, các bộ tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 đều tăng số lượng chỉ tiêu và mức độ đạt chuẩn so với giai đoạn 2016-2020. Trong đó, có nhiều chỉ tiêu mới, tăng cả về chất và lượng, nhiều chỉ tiêu chưa phù hợp với tình hình thực tế; chưa ban hành tiêu chí nông thôn mới phù hợp cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị. Theo đánh giá của nhiều địa phương, tiêu chí số 10 về thu nhập và tiêu chí số 11 về nghèo đa chiều là khó hoàn thành nhất, do các xã chưa đạt nông thôn mới ở các địa phương đa phần là các xã nghèo, xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu người nông thôn còn thấp, trong khi mức chuẩn nghèo đa chiều đã có sự điều chỉnh.

Thứ tư, một số địa phương chưa chủ động thực hiện công tác rà soát, xây dựng nhu cầu vốn đầu tư và các thủ tục chuẩn bị đầu tư ngay từ đầu năm nên mất nhiều thời gian hoàn thiện thủ tục phê duyệt dự án đầu tư theo quy định; chưa tích cực chủ động xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện duy trì, nâng cao chất lượng các chỉ tiêu, tiêu chí nông thôn mới và chưa thực sự phát huy hết nội lực trong nhân dân; một số địa phương đánh giá thực trạng tiêu chí chưa sát với thực tế nên ảnh hưởng tới tiến độ triển khai thực hiện, nhất là đối với xã đăng ký đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Đó là chưa kể, phong trào xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương có dấu hiệu chững lại, thỏa mãn với kết quả đã đạt chuẩn, chưa chú trọng nhiều đến công tác duy trì bền vững kết quả và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới sau đạt chuẩn, nhất là tiêu chí môi trường, thu nhập, an ninh trật tự xã hội… Chất lượng các công trình cơ sở hạ tầng sau khi đạt chuẩn ở một số địa phương đã có dấu hiệu xuống cấp do chưa được quan tâm, duy tu bảo dưỡng thường xuyên.

Thứ năm, số lượng xã đặc biệt khó khăn (xã khu vực II, III) vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới còn rất hạn chế. Đặc biệt, đến nay vẫn còn 16 huyện nghèo thuộc 12 tỉnh “trắng xã nông thôn mới”.

Theo Điều 3 Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025: “Các xã khu vực III, khu vực II đã được phê duyệt tại Quyết định này nếu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới sẽ được xác định là xã khu vực I và thôi hưởng các chính sách áp dụng đối với xã khu vực III, khu vực II kể từ ngày Quyết định của cấp có thẩm quyền công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới có hiệu lực”. Do đó, một số xã khu vực III, khu vực II, có biểu hiện không muốn phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới. Trong khi, số lượng các xã còn lại chưa đạt chuẩn hầu hết nằm tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Thứ sáu, có khoảng cách chênh lệch lớn đối với kết quả đạt chuẩn xã nông thôn mới của một số vùng, điển hình như khu vực miền núi phía bắc mới có 54,2% số xã đạt chuẩn; Tây Nguyên là 63,8%; còn 4 tỉnh thuộc trung du miền núi phía bắc có dưới 30% xã đạt chuẩn nông thôn mới. Ba tỉnh vẫn chưa có đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 2025).

Một số công trình hạ tầng sau khi đạt chuẩn đang xuống cấp do thiếu duy tu, bảo dưỡng. Tỷ lệ hộ nông thôn được sử dụng nước sạch tập trung mới đạt 55%. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn chậm, lực lượng lao động trẻ tiếp tục rời bỏ nông thôn, trong khi lao động lớn tuổi gia tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của cơ cấu sản xuất.

Ngoài ra, việc hấp thụ sản phẩm văn hóa thiếu chọn lọc cũng khiến nhiều địa phương rơi vào tình trạng sao chép máy móc, ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa truyền thống.

Thứ bảy, đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ phụ trách nông thôn mới ở xã có nhiều xáo trộn, thay đổi, chưa thật sự am hiểu về xây dựng nông thôn mới nên còn lúng túng trong việc tham mưu, triển khai thực hiện. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, vận động trong xây dựng nông thôn mới ở một số nơi đôi lúc chưa thường xuyên, liên tục.

GIẢI PHÁP THÁO GỠ

Một là, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng nông thôn mới nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế để đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần nghiên cứu, rà soát các tiêu chí, chỉ tiêu chưa phù hợp trong các Bộ tiêu chí xã nông thôn mới, xã nông thôn mới nâng cao, huyện nông thôn mới, huyện nông thôn mới nâng cao để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng vùng, miền hoặc hướng dẫn lộ trình thực hiện các chỉ tiêu, tiêu chí đó.

Tiếp tục tập trung hoàn thành mục tiêu phấn đấu đến 2030 có trên 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, phấn đấu 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới trên 70%, trong đó phấn đấu 35% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 phấn đấu tăng gấp 2,5-3 lần so với năm 2020.

Cùng với đó, tập trung giải quyết các vấn đề hạn chế, cấp thiết ở địa phương nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, đặc biệt khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn…

Hai là, đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông nhằm thống nhất nhận thức, thay đổi tư duy cho cán bộ và người dân về thực hiện xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng “Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”, dám nghĩ, dám làm và sáng tạo trong triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình, đặc biệt là thực hiện phát triển kinh tế nông thôn theo hướng chuyển từ đơn giá trị sang đa giá trị; thực hiện các nội dung, hoạt động về bảo vệ môi trường, chuyển đổi số, an ninh trật tự... để nâng cao chất lượng phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, góp phần xây dựng nông thôn mới hiệu quả hơn, bền vững hơn, tạo sự lan tỏa rộng lớn trong cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân.

Ba là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, theo dõi chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên thực sự nhạy bén, tinh thông, có chuyên môn, không chỉ tuyên truyền, định hướng dư luận mà còn phản bác lại những thông tin sai trái của các thế lực thù địch.

Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đa dạng hình thức, cách thức trong công tác tuyên truyền, vận động xây dựng nông thôn mới.

Bốn là, nâng cao năng lực sáng tạo, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ và khởi nghiệp ở nông thôn; đẩy mạnh chuyên nghiệp hóa và doanh nhân hóa nông dân, gắn với đẩy mạnh thu hút đầu tư doanh nghiệp. Đẩy mạnh bảo quản, chế biến, nâng cao giá trị gia tăng; xây dựng các mô hình nông thôn mới tương lai đặc trưng cho các vùng miền, tộc người, ngành nghề kinh tế.

Năm là, tập trung xây dựng những mô hình nông thôn mới đa dạng, điển hình, tiêu biểu, có tính đặc thù cho các vùng miền, ngành nghề… Lan tỏa mạnh mẽ các điển hình, tiêu biểu. Tiếp tục tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân nâng cao chất lượng các tiêu chí, phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu để đảm bảo phát triển bền vững./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2024). Báo cáo kết quả thực hiện CTMTQG xây dựng nông thôn mới năm 2024 và dự kiến phương hướng, nhiệm vụ năm 2025.

2. Bộ Nông nghiệp và Môi trường (2025). Hội thảo tham vấn định hướng Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035, ngày 13/6/2025.

3. Đỗ Văn Trịnh (2024). Nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 3.

4. Thanh Trà – Sơn Hà (2025). Xây dựng nông thôn mới giai đoạn mới: Thách thức và cơ hội, truy cập từ https://nhandan.vn/xay-dung-nong-thon-moi-giai-doan-moi-thach-thuc-va-co-hoi-post886664.html.

5. Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương (2024). Báo cáo tổng kết kết quả công tác năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2025.

Ngày nhận bài: 20/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/6/2025; Ngày duyệt đăng: 25/6/2025