Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cải cách hành chính cấp tỉnh

Bài viết phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hệ thống hành chính cấp tỉnh còn phân mảnh và kém hiệu quả.

Mai Thu Phương

Email: phuongmt@uel.edu.vn

Nguyễn Minh Thoại

Email: thoainm@uel.edu.vn

Tóm tắt

Bài viết phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hệ thống hành chính cấp tỉnh còn phân mảnh và kém hiệu quả. Mặc dù nền kinh tế đạt mức tăng trưởng ổn định, sự phân hóa rõ rệt giữa các địa phương cho thấy cấu trúc hành chính hiện tại đang là rào cản cho phát triển vùng. Việc duy trì 63 tỉnh/thành với nhiều đơn vị nhỏ dẫn đến đầu tư công phân tán, thiếu quy hoạch liên vùng và cạnh tranh nội bộ trong thu hút đầu tư. Trong nghiên cứu, nhóm tác giả khẳng định cải cách hành chính cấp tỉnh là điều kiện cần để nâng cao hiệu quả quản trị và mở rộng không gian phát triển kinh tế. Tác giả đề xuất 4 nhóm giải pháp bao gồm tổ chức lại đơn vị hành chính, phân bổ lại ngân sách, tăng cường năng lực quản trị và thúc đẩy đồng thuận xã hội nhằm bảo đảm thành công cho quá trình cải cách.

Từ khoá: Tăng trưởng kinh tế, cải cách hành chính, tăng trưởng Việt Nam

Summary

This paper analyzes the reality of Vietnam’s economic growth in the context of a fragmented and inefficient provincial administrative system. Although the economy has maintained stable growth, the stark disparities among provinces suggest that the existing administrative structure poses a barrier to regional development. The maintenance of 63 provinces and municipalities - many of which are small in scale - has led to dispersed public investment, a lack of inter-regional planning, and internal competition in attracting investment. The study argues that provincial administrative reform is a necessary condition for improving governance efficiency and expanding the space for economic development. The authors propose four groups of solutions concerning restructuring administrative units, reallocating budget resources, strengthening governance capacity, and fostering social consensus to ensure the success of the reform process.

Keywords: Economic growth, administrative reform, Vietnam’s growth

GIỚI THIỆU

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tăng trưởng kinh tế bền vững là mục tiêu cốt lõi trong chiến lược phát triển quốc gia của Việt Nam. Hơn 3 thập kỷ qua, kể từ khi thực hiện công cuộc “đổi mới”, nền kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển mình ấn tượng với mức tăng trưởng bình quân trên 6,1%/năm trong suốt giai đoạn 2010 - 2023 (GSO, 2024). Tuy nhiên, đằng sau những con số tích cực đó là nhiều tồn tại mang tính cơ cấu, trong đó đáng chú ý là hiệu quả không đồng đều giữa các địa phương và sự phân mảnh trong không gian phát triển. Hiện nay, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương - một con số cao so với nhiều quốc gia có quy mô dân số tương đương. Tình trạng phân mảnh lãnh thổ hành chính dẫn đến chi phí quản lý nhà nước tăng cao, hiệu quả đầu tư công thấp và hạn chế khả năng điều phối phát triển vùng. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã ban hành Nghị quyết 60-NQ/TW vào tháng 4 năm 2025, định hướng sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp tỉnh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, góp phần cải cách thể chế quản trị và tạo động lực tăng trưởng mới. Trước thềm cuộc cải cách hành chính có quy mô lớn nhất kể từ Đổi mới, việc đánh giá một cách khách quan thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam dưới cấu trúc hành chính hiện hành là cần thiết. Bài viết này nhằm phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh thành Việt Nam, đánh giá những tác động tiêu cực của cấu trúc hành chính phân mảnh đến hiệu quả phát triển kinh tế vùng, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách phù hợp để đảm bảo quá trình cải cách diễn ra hiệu quả, gắn với mục tiêu tăng trưởng bền vững và đồng đều hơn.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong lý thuyết phát triển vùng, tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào nguồn lực nội tại (vốn, lao động, công nghệ) mà còn chịu ảnh hưởng lớn từ thể chế hành chính và cách tổ chức không gian lãnh thổ (Rodríguez-Pose, 2013). Một cấu trúc hành chính quá phân tán dẫn đến chi phí điều phối cao, giảm hiệu suất đầu tư, và không tạo được lợi thế quy mô. Theo mô hình “hành chính hợp nhất” (integrated governance), việc tổ chức các đơn vị hành chính lớn hơn, đồng thời đi kèm với phân cấp mạnh mẽ và quản trị hiệu quả sẽ giúp nâng cao năng lực phát triển kinh tế địa phương, tạo thuận lợi cho quy hoạch hạ tầng, thu hút đầu tư và phát triển dịch vụ công (OECD, 2020). Ngược lại, các đơn vị nhỏ lẻ dễ rơi vào tình trạng cạnh tranh cục bộ, thiếu khả năng hình thành chuỗi giá trị và vùng động lực phát triển.

Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả áp dụng phương pháp phân tích định tính để thu thập, xử lý và đánh giá các dữ liệu, nhằm phản ánh một cách khách quan tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn đã lựa chọn. Dữ liệu thứ cấp được khai thác từ các báo cáo thống kê chính thức của Tổng cục Thống kê (GSO) cùng với những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan, qua đó đảm bảo tính thống nhất, khách quan, độ chính xác cao và sự đáng tin cậy của kết quả nghiên cứu.

THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM

Giai đoạn 2010 - 2023 được xem là thời kỳ tăng trưởng kinh tế ấn tượng của Việt Nam với mức tăng GDP thực trung bình đạt khoảng 6,3%/năm (GSO, 2023). Mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 trong năm 2020 - 2021, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nền kinh tế phục hồi nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Năm 2024, bức tranh kinh tế Việt Nam tiếp tục ghi nhận những dấu ấn tích cực ở cấp quốc gia, với quy mô GDP ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng (tương đương 476,3 tỷ USD) và GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành khoảng 114 triệu đồng, tức gần 4.700 USD/người - tăng thêm 377 USD so với năm 2023 (GSO, 2024). Tuy nhiên, khi đi sâu vào cấp độ địa phương và phân tích theo chiều không gian lãnh thổ, bức tranh tăng trưởng lại cho thấy một thực tế đáng suy ngẫm: sự phân hóa rõ rệt và ngày càng sâu giữa các nhóm tỉnh, thành phố, không chỉ về quy mô kinh tế mà còn ở tốc độ phát triển và chất lượng tăng trưởng.

Hình: Xếp hạng 10 địa phương có GRDP cao nhất năm 2024

Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cải cách hành chính cấp tỉnh

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu Cục Thống kê, Chi cục Thống kê cấp tỉnh, UBND các tỉnh, thành phố

Từ số liệu Hình, GRDP năm 2024 cho thấy một thực tế kinh tế mang tính cấu trúc tại Việt Nam: 10 tỉnh, thành phố có quy mô kinh tế lớn nhất cả nước hiện đang đóng góp tới 54,2% tổng GRDP quốc gia. Trong đó, riêng TP. Hồ Chí Minh đã chiếm 15,54%, tiếp theo là Hà Nội với 12,50%, và các tỉnh công nghiệp trọng điểm như Bình Dương (4,55%), Đồng Nai (4,32%), Hải Phòng (3,90%). Các địa phương còn lại trong nhóm này bao gồm Bắc Ninh, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Long An và Bà Rịa - Vũng Tàu, mỗi tỉnh đóng góp từ 1,9 - 3,04% GRDP toàn quốc. Nói cách khác, hơn một nửa nền kinh tế Việt Nam được kiến tạo từ chưa đầy 1/6 số đơn vị hành chính cấp tỉnh. Những cái tên như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Bắc Ninh hay Hải Phòng không còn là hiện tượng tăng trưởng, mà đã trở thành các “cực động lực” kinh tế định hình toàn bộ không gian phát triển quốc gia. Trong khi đó, phần còn lại của bản đồ hành chính với hơn 50 tỉnh, thành chỉ đóng góp khoảng 46,8% GRDP, cho thấy một mức độ bất đối xứng tăng trưởng sâu sắc. Điều đáng lo ngại không chỉ là sự chênh lệch thu nhập hay đầu tư, mà còn là khoảng cách về khả năng tiếp cận nguồn lực, năng suất lao động, quy mô thị trường và vị thế trong chuỗi giá trị sản xuất. Một số tỉnh miền núi, Tây Nguyên hoặc ven biển miền Trung vẫn loay hoay ở mức GRDP dưới 50.000 tỷ đồng tương đương chưa bằng 1/30 của TP. Hồ Chí Minh. Câu chuyện ở đây không còn đơn thuần là “vùng mạnh - vùng yếu”, mà đã bước sang cấp độ “vùng trung tâm - vùng bên lề”, nơi các địa phương nhỏ lẻ bị đẩy ra ngoài quỹ đạo phát triển chung vì thiếu quy mô, thiếu kết nối và thiếu vị thế.

Về tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2024 ghi nhận sự bứt phá ấn tượng từ một số địa phương vốn trước đây không thuộc nhóm “đầu tàu” truyền thống. Bắc Giang là tỉnh dẫn đầu cả nước với mức tăng trưởng GRDP đạt 13,85%, một phần nhờ sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và sức hấp dẫn từ các khu công nghiệp mới. Thanh Hóa, với nền tảng công nghiệp nặng (lọc hóa dầu, nhiệt điện) và hạ tầng đang được cải thiện mạnh, ghi nhận mức tăng 12,16%, trong khi Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 11,72% nhờ vai trò trung tâm dầu khí và cảng biển. Các địa phương khác như Hải Phòng, Hà Nam, Hải Dương, Khánh Hòa, Trà Vinh và Nam Định đều đạt mức tăng từ 10% trở lên, cho thấy sự dịch chuyển động lực tăng trưởng ra khỏi các trung tâm truyền thống như TP.HCM hay Hà Nội đang dần hình thành. Tuy nhiên, cũng trong năm 2024, nhiều tỉnh, thành lại ghi nhận tốc độ tăng trưởng thấp dưới 6%, phản ánh những thách thức dài hạn trong năng lực phục hồi và hấp thụ vốn đầu tư. Lâm Đồng chỉ tăng trưởng 4,02%, Gia Lai chỉ đạt 3,28%, trong khi Quảng Ngãi, Đắk Nông, Vĩnh Long, Bến Tre và Hà Giang cũng nằm trong nhóm có mức tăng rất khiêm tốn. Nguyên nhân không chỉ do cơ cấu kinh tế vẫn phụ thuộc vào nông - lâm nghiệp truyền thống, mà còn bởi hạn chế trong tiếp cận nguồn lực, thiếu hạ tầng trọng điểm và đặc biệt là năng suất lao động thấp.

Đáng lưu ý, mức GRDP bình quân đầu người, thước đo gần sát với chất lượng sống kinh tế thực tế cũng thể hiện sự phân cực ngày càng lớn. Trong khi Bà Rịa - Vũng Tàu đứng đầu cả nước với hơn 9.000 USD/người, nhờ vai trò trong ngành dầu khí và logistics cảng biển, thì Hải Phòng (8.665 USD), TP.HCM (7.600 USD) và Hà Nội (6.406 USD) vẫn duy trì nhóm dẫn đầu. Các đô thị trung tâm cấp vùng như Đà Nẵng (4.719 USD) hay Cần Thơ (4.162 USD) cũng có mức GRDP/người ở mức khá. Tuy nhiên, ở phía đối lập, nhiều tỉnh như Hà Giang (1.540 USD), Yên Bái (2.206 USD), Bắc Kạn (2.233 USD) và Sơn La (2.257 USD) (GSO, 2024) vẫn nằm dưới ngưỡng 2.500 USD/người, tức là chưa bằng một nửa bình quân cả nước, cho thấy sự bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội phát triển và dịch vụ kinh tế cơ bản.

Về mặt tích cực, mô hình này tạo ra các “đầu tàu” kinh tế đủ lớn để dẫn dắt chuỗi giá trị, logistics, và thị trường tài chính quốc gia. Tuy nhiên, về dài hạn, nó cũng làm gia tăng độ phân hóa phát triển và rủi ro mất cân đối vùng, đặc biệt khi hơn 50 địa phương còn lại chia sẻ chưa tới 47% GRDP, trong đó nhiều tỉnh có GRDP dưới 50.000 tỷ đồng (GSO, 2024). Sự bất đối xứng này đặt ra nhu cầu cấp bách về cải cách thể chế lãnh thổ. Cấu trúc hành chính hiện nay, với 63 tỉnh thành, trong đó hơn 20 đơn vị có dân số dưới 1 triệu người, không còn phù hợp với yêu cầu phát triển tích hợp vùng và tối ưu hóa nguồn lực. Nghị quyết 60-NQ/TW về cải cách hành chính cấp tỉnh (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2025) vì thế cần được triển khai như một chiến lược phát triển không gian mới, thay vì tiếp cận như một biện pháp hành chính thuần túy. Chỉ khi cấu trúc lãnh thổ được tái thiết dựa trên logic kinh tế chứ không phải địa giới lịch sử thì Việt Nam mới có thể chuyển từ mô hình “đầu tàu kéo toa” sang “hệ thống toa tàu liên kết đồng tốc”, bảo đảm sự phát triển đồng đều, bền vững và hội nhập sâu rộng.

Khoảng cách này, nếu không được can thiệp bằng các chính sách phát triển không gian hiệu quả, sẽ dẫn đến tình trạng “hai tốc độ” nơi một nhóm tỉnh dẫn đầu tiếp tục tăng trưởng, còn phần còn lại bị bỏ lại phía sau trong chuỗi giá trị quốc gia. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách mô hình hành chính và phân cấp lãnh thổ, đặc biệt là tích hợp các tỉnh nhỏ, manh mún thành các vùng kinh tế đủ lớn để hình thành chuỗi liên kết công nghiệp - dịch vụ - đô thị hiệu quả. Chỉ khi Việt Nam thoát khỏi tư duy phát triển “cục bộ địa phương”, mới có thể giải bài toán tăng trưởng đồng đều và phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

Chính vì vậy, cải cách hành chính cấp tỉnh không thể chỉ là tinh giản bộ máy, mà cần được nhìn nhận như một chiến lược tái cấu trúc không gian phát triển quốc gia nơi các đơn vị hành chính được tổ chức lại dựa trên logic kinh tế, năng lực phát triển và sự tích hợp vùng, thay vì đường ranh giới truyền thống. Cải cách sáp nhập tỉnh, nếu được thực hiện hợp lý, sẽ mở ra cơ hội để xây dựng các đơn vị kinh tế hành chính đủ lớn, đủ mạnh để tạo ra những “trung tâm tăng trưởng vùng mới”.

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN VỪA QUA

Hơn một nửa nền kinh tế Việt Nam được kiến tạo từ chỉ 10/63 tỉnh thành, phản ánh mức độ tập trung kinh tế cao và sự phụ thuộc ngày càng rõ nét vào một số cực tăng trưởng. Điều này phù hợp với nhận định của OECD (2020), cho rằng các quốc gia đang phát triển thường chứng kiến hiện tượng “siêu tập trung vùng đô thị” như là hệ quả tự nhiên của đầu tư công, quy hoạch và dòng vốn FDI dồn về các trung tâm.

Một trong những hệ quả của phân mảnh hành chính là thiếu cơ chế điều phối phát triển liên vùng hiệu quả. Mỗi tỉnh đều có chiến lược phát triển riêng, nhưng không có cơ quan phối hợp có thẩm quyền xuyên tỉnh. Tại vùng Trung du miền núi phía Bắc, nơi 14 tỉnh đều có khu kinh tế cửa khẩu, nhưng không có cơ chế chia sẻ lợi ích và phân công chức năng rõ ràng. Điều này dẫn đến cạnh tranh nội vùng, làm giảm hiệu quả thu hút đầu tư và gây lãng phí tài nguyên.

Việc mỗi tỉnh hoạt động như một “đơn vị hành chính độc lập” khiến mô hình phát triển hiện tại thiên về địa phương hóa cực độ. Các tỉnh cạnh tranh nhau trong thu hút dự án, quy hoạch khu công nghiệp trùng lắp, làm mất tính tổng thể. Theo đánh giá của OECD (2020), sự phân mảnh hành chính là một trong những yếu tố làm giảm hiệu quả chi tiêu công và làm chậm tiến trình phát triển kinh tế vùng ở Việt Nam.

Một trong những vấn đề nổi bật của phát triển vùng tại Việt Nam là thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa các tỉnh. Cơ chế quản lý hiện hành chủ yếu dựa trên cấp tỉnh khiến nguồn lực và ngân sách phân tán, làm suy yếu khả năng lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược liên tỉnh. Nghiên cứu của Minkman và cộng sự (2022) chỉ rõ rằng sự thiếu vắng cơ chế phối hợp giữa các tỉnh tại Đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra khoảng cách lớn giữa các kế hoạch tổng thể ở cấp quốc gia và hành động cụ thể ở địa phương, cản trở đáng kể quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngoài ra, báo cáo của Swiss Agency for Development and Cooperation (2020) cũng cho thấy ngân sách quốc gia được phân bổ chủ yếu theo tỉnh, trong khi lãnh đạo các tỉnh thường không sẵn sàng cam kết nguồn lực vào các hoạt động liên tỉnh nếu không đem lại lợi ích trực tiếp cho địa phương mình. Điều này gây ra tình trạng thiếu đồng bộ trong quy hoạch và làm giảm hiệu quả tổng thể của vùng.

Thiếu tầm nhìn quy hoạch liên kết vùng do phân cấp hành chính mạnh cho tỉnh, nhiều quy hoạch phát triển vẫn bị cắt khúc theo ranh giới địa lý hành chính, thay vì dựa trên địa kinh tế. Ví dụ, tuyến cao tốc Bắc - Nam hiện có 20 đoạn khác nhau, mỗi đoạn thuộc một tỉnh, dẫn đến tiến độ triển khai không đồng đều và thiếu tích hợp. Hay trong lĩnh vực nông nghiệp, mỗi tỉnh quy hoạch vùng chuyên canh riêng, khiến nguồn cung phân tán, khó tạo thương hiệu vùng nguyên liệu xuất khẩu. Kết quả là tăng trưởng kinh tế vùng không ổn định, phụ thuộc vào năng lực tỉnh trung tâm, trong khi các tỉnh vệ tinh không phát triển được vai trò hỗ trợ hoặc liên kết.

KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH TĂNG TRƯỞNG VIỆT NAM CHO GIAI ĐOẠN SẮP TỚI

Giai đoạn 2010 - 2024 đã ghi dấu nhiều thành tựu đáng kể trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bất chấp những biến động toàn cầu như đại dịch COVID-19 hay suy thoái thương mại thế giới. Tuy nhiên, tăng trưởng đó mang tính không đồng đều giữa các địa phương, phản ánh rõ nét sự bất cân xứng về năng lực phát triển vùng do mô hình hành chính phân mảnh kéo dài. Để có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong giai đoạn tới, một số giải pháp trong cải cách hành chính cấp tỉnh có thể thực hiện động bộ như sau:

Thứ nhất, về mặt thể chế hành chính và tổ chức lãnh thổ, việc sáp nhập cần dựa trên các tiêu chí định lượng như dân số, diện tích, GRDP và mức độ gắn kết kinh tế - xã hội giữa các địa phương. Những tỉnh có quy mô dân số dưới 1 triệu người hoặc GRDP quá nhỏ nên được cân nhắc hợp nhất thành một thực thể hành chính lớn hơn, từ đó tạo không gian đủ rộng để thực hiện các chiến lược phát triển. Đồng thời, cần thiết lập các vùng hành chính kinh tế có quyền điều phối liên tỉnh, có ngân sách và pháp lý rõ ràng, để giải quyết tình trạng chia cắt và cát cứ hiện nay. Việc ban hành Luật Quy hoạch vùng tích hợp sẽ là công cụ nền tảng giúp định hình lại không gian phát triển quốc gia theo hướng đồng bộ và hiệu quả.

Thứ hai, về phân bổ đầu tư công, Chính phủ cần ưu tiên rót vốn cho các vùng sau sáp nhập nơi có tiềm năng trở thành cực tăng trưởng mới hoặc trung tâm công nghiệp, dịch vụ. Việc đầu tư nên hướng tới tính lan tỏa, thay vì dàn trải như hiện nay. Cùng với đó, nên thiết lập cơ chế ngân sách vùng, cho phép điều phối và luân chuyển nguồn lực một cách linh hoạt giữa các tỉnh trong một vùng phát triển chung. Đặc biệt, cần học hỏi mô hình của Nhật Bản trong việc hỗ trợ tài chính cho các đơn vị hành chính mới sáp nhập thông qua các gói chuyển tiếp có thời hạn, để đảm bảo sự ổn định về tài chính và tránh xung đột lợi ích giữa các địa phương cũ.

Thứ ba, về nhân lực và năng lực quản trị, cần tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ cấp tỉnh và cấp vùng theo tư duy quản trị hiện đại, có tầm nhìn kinh tế vùng thay vì chỉ tập trung vào lợi ích địa phương hẹp. Những mô hình quản trị mới như đô thị tích hợp, thành phố thông minh, và hành chính điện tử nên được thí điểm tại các địa phương sau sáp nhập để tạo sự thích nghi nhanh chóng với mô hình quản trị quy mô lớn.

Thứ tư, về mặt xã hội và truyền thông, việc sáp nhập cần được thực hiện dựa trên nền tảng đồng thuận rộng rãi của người dân và hệ thống chính trị cơ sở. Do đó, cần tổ chức truyền thông đầy đủ, khách quan và dễ hiểu về mục tiêu, lợi ích và lộ trình cải cách. Cần nhấn mạnh rằng việc sáp nhập tỉnh không chỉ để tiết kiệm ngân sách, mà quan trọng hơn là để mở rộng không gian phát triển, thu hút đầu tư và nâng cao chất lượng dịch vụ công cho người dân. Trưng cầu ý kiến cộng đồng, tổ chức các diễn đàn đối thoại, và tham vấn xã hội là các bước cần thiết để đảm bảo tiến trình cải cách được ủng hộ và giám sát chặt chẽ từ cơ sở.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (2025). Nghị quyết số 60-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

2. Minkman, E., Nguyen, H. Q., Luu, T., Dang, K. K., Nguyen, S. L., Du, H. M., & Rijke, J. (2022). From national vision to implementation: Governance challenges in sustainable agriculture transitions in the Vietnamese Mekong Delta region. Regional Environmental Change, 22, Article 35. https://doi.org/10.1007/s10113-022-01898-z.

3. OECD. (2020). A territorial approach to the Sustainable Development Goals: Synthesis report. OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/e86fa715-en.

4. Rodríguez-Pose, A. (2013). Do institutions matter for regional development? Regional Studies, 47(7), 1034–1047. https://doi.org/10.1080/00343404.2012.748978.

5. Swiss Agency for Development and Cooperation. (2020). The development of regional coordination in the Mekong Delta. Government of Vietnam & SDC.

6. Tổng cục Thống kê Việt Nam. (2024). Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024/.

7. Tổng cục Thống kê Việt Nam. (2024). Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 2010 phân theo khu vực kinh tế. https://www.nso.gov.vn/pxweb2/pxid=V0303&theme=T%C3%A0i%20kho%E1%BA%A3n%20qu%E1%BB%91c%20ga.

8. Tổng cục Thống kê Việt Nam. (2024). Tư liệu kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương 2019-2023. https://www.nso.gov.vn/default/2025/01/tu-lieu-kinh-te-xa-hoi-63-tinh-thanh-pho-truc-thuoc-trung-uong-2019-2023/.

Ngày nhận bài: 09/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập 21/6/2025; Ngày duyệt đăng: 25/6/2025