TS. Cấn Thị Thu Hương
Học viện Ngân hàng
Email: huongctt@hvnh.edu.vn
Tóm tắt
Là một trong những nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp với khoảng 80% dân số sống ở khu vực nông thôn, Thái Lan đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức do biến đổi khí hậu gây ra. Trước thực trạng đó, Thái Lan đã chủ động chuyển đổi mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng “nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu”. Thông qua hàng loạt chính sách hỗ trợ như cải cách ruộng đất, ứng dụng khoa học – công nghệ, thúc đẩy đào tạo và chuyển giao kỹ thuật, phát triển giống cây trồng phù hợp với khí hậu..., Thái Lan đang từng bước xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp thông minh, thích ứng tốt hơn với các tác động của biến đổi khí hậu. Bài viết nhằm phân tích các chính sách, chương trình và giải pháp mà Thái Lan đang triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp thông minh nhằm đối phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo và vận dụng đối với các quốc gia đang phát triển có điều kiện tương đồng, trong đó có Việt Nam.
Từ khóa: Nông nghiệp thông minh, biến đổi khí hậu, Thái Lan
Summary
As an economy heavily dependent on agriculture, with approximately 80% of its population residing in rural areas, Thailand is facing numerous challenges caused by climate change. In response, the country has proactively shifted its agricultural development model toward "climate-smart agriculture". Through a series of supportive policies such as land reform, the application of science and technology, the promotion of training and technical transfer, and the development of climate-resilient crop varieties, Thailand is gradually building a climate-smart agricultural ecosystem that is better equipped to cope with the impacts of climate change. This article aims to analyze the policies, programs, and initiatives that Thailand is implementing in the field of climate-smart agriculture to effectively address climate change. It also draws lessons that may be applicable to other developing countries with similar conditions, including Vietnam.
Keywords: Smart agriculture, climate change, Thailand
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng trở nên nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại đáng kể về kinh tế và xã hội. Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi BĐKH, không chỉ trong hiện tại mà còn trong dài hạn (WMO, 2020). Là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực lớn trong việc duy trì an ninh lương thực và ổn định xuất khẩu trong bối cảnh khí hậu biến động.
Mặt khác, nông nghiệp không chỉ là nạn nhân, mà còn là nguyên nhân gây phát thải khí nhà kính đáng kể làm trầm trọng thêm tình trạng BĐKH. Cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra những cơ hội lớn để chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, trong đó mô hình nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu (Climate-Smart Agriculture – CSA) nổi lên như một hướng đi chiến lược. Việc thúc đẩy CSA tại Việt Nam được kỳ vọng sẽ nâng cao năng lực thích ứng, giảm thiểu rủi ro khí hậu cho hệ thống nông nghiệp thông qua áp dụng các tiến bộ công nghệ và đổi mới phương thức sản xuất.
Trong khu vực ASEAN, Thái Lan được đánh giá là quốc gia đi đầu trong triển khai CSA nhờ áp dụng cách tiếp cận tổng thể và đồng bộ từ cải cách chính sách đất đai, hỗ trợ tài chính – kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ đến đào tạo nguồn nhân lực và truyền thông cộng đồng. Tại Việt Nam, mặc dù đã có những bước tiếp cận ban đầu và một số chính sách thúc đẩy nông nghiệp xanh, song vẫn còn thiếu tính hệ thống và hiệu quả lan tỏa. Từ thực tiễn đó, bài viết này nhằm phân tích kinh nghiệm phát triển nông nghiệp thông minh thích ứng với BĐKH của Thái Lan, qua đó rút ra các bài học và hàm ý chính sách phù hợp cho Việt Nam.
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH
BĐKH là một trong những chủ đề môi trường toàn cầu được quan tâm hàng đầu hiện nay. Tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, mọi khu vực địa lý đều chịu sự tác động sâu rộng của BĐKH. Thời kỳ thế giới phát triển công nghiệp, trước cảnh báo nguy cơ trái đất ấm dần lên, một số các nhà khoa học đã nghiên cứu chuyên sâu hơn về BĐKH cùng với việc các tổ chức được thành lập nên tạo nên mối quan tâm sâu sắc diễn ra trên toàn thế giới. Ngay từ năm 1988, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) cùng Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đồng thành lập Ủy ban liên chính phủ về BĐKH IPCC, gồm rất nhiều nhà khoa học trong ngành nghiên cứu các nguyên nhân gây ra BĐKH. Mục đích là để đánh giá các thông tin khoa học, kỹ thuật, kinh tế xã hội và các nguy cơ của BĐKH gây ra.
Theo UNDP: “BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn” (UNDP, 2019). Bằng chứng về BĐKH được thể hiện ở việc gia tăng nhiệt độ trung bình của không khí và đại dương trên toàn cầu, tình trạng băng tan và tăng mực nước biển trung bình, thay đổi các hệ sinh thái, thành phần sinh quyển, thủy quyển, thạch quyển… Thực tế chứng minh các hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng có tác động tiêu cực làm trầm trọng hóa vấn đề BĐKH.
Nông nghiệp là ngành dễ dàng bị tổn thương trước BĐKH, để đạt được mục tiêu an ninh lương thực hệ thống, nông nghiệp phải được đổi mới theo hướng thích ứng tốt hơn với BĐKH, hạn chế tác động xấu tới môi trường, đảm bảo nguồn lương thực đầy đủ cho con người. Với mục tiêu đó nông nghiệp thông minh với BĐKH viết tắt là CSA đã ra đời. CSA là hệ thống nông nghiệp đảm bảo năng suất, sản lượng một cách bền vững, tăng khả năng phục hồi (thích ứng), giảm/loại bỏ phát thải khí nhà kính (giảm thiểu), hỗ trợ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và các mục tiêu phát triển (FAO, 2013). CSA đã được các nhà khoa học, các nhà quản lý ở các quốc gia quan tâm. Với sự hỗ trợ về kỹ thuật, chính sách và tài chính, CSA là một cách tiếp cận có thể giải quyết được cả ba vấn đề chủ chốt trong phát triển bền vững là: kinh tế, xã hội, môi trường bằng cách tăng cường các biện pháp thích ứng, chống chịu nhằm nâng cao năng suất lao động trong ngành nông nghiệp, giảm nhẹ BĐKH bằng cách giảm nhẹ các tác động tiêu cực tới môi trường và từ đó đảm bảo an ninh lương thực. Thực hiện CSA được các quốc gia kỳ vọng sẽ đạt được mục tiêu “phát triển thiên niên kỷ” do Liên Hợp Quốc đề ra.
NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở THÁI LAN
Kết quả được
Điểm nổi bật nhất của CSA của Thái Lan là gia tăng năng suất một cách bền vững trong vòng 20 năm trở lại đây. Sản lượng nông nghiệp trong nước không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn mang lại nguồn thu ngân sách đáng kể cho Thái Lan thông qua hoạt động xuất khẩu. Thái Lan là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, nổi bật với các sản phẩm như gạo, trái cây, thủy sản, và các sản phẩm chế biến từ nông nghiệp. Năm 2023, xuất khẩu nông sản của Thái Lan đạt 19,56 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2022. Thái Lan cũng tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, tạo ra nhiều sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng (MOAC, 2023).
Để đạt được những kết quả kể trên, Thái Lan đã thực hiện quá trình chuyển đổi mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Quốc gia này đã từng bước giảm tỷ trọng của các loại cây trồng truyền thống, đồng thời đẩy mạnh phát triển những loại cây trồng mới có năng suất cao và thích hợp hơn với điều kiện khí hậu biến đổi. Đặc biệt, Thái Lan đang đẩy mạnh chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu CSA nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp (TGO, 2023). Cụ thể như sau:
Ban hành kế hoạch phát triển dài hạn và chính sách nông nghiệp phù hợp
Sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp được xem là nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế của Thái Lan. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này phần lớn là nhờ các chính sách định hướng đúng đắn từ chính phủ, thể hiện qua việc sớm thực hiện cải cách thể chế và thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân trong phát triển nông nghiệp. Là một quốc gia có tới 80% dân số làm nông nghiệp, Thái Lan đã nhanh chóng tư nhân hóa và thiết lập một chiến lược phát triển nông nghiệp rõ ràng, hướng đến mô hình nông nghiệp thân thiện với môi trường.
Các chiến lược phát triển nông nghiệp tại Thái Lan được cập nhật và điều chỉnh theo những xu hướng mới nhất, đảm bảo tính hiệu quả và bền vững trong dài hạn. Một trong những trọng tâm chiến lược hiện nay là kế hoạch “Thailand 4.0”, nhằm chuyển đổi nền nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại, ứng dụng rộng rãi khoa học – công nghệ và khai thác tối ưu nguồn tài nguyên bản địa nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp trong nước.
Chính phủ Thái Lan đã ban hành nhiều chính sách và kế hoạch hành động cụ thể, bao gồm hỗ trợ vốn, cải tiến giống cây trồng, phát triển kỹ thuật canh tác và chuyển giao công nghệ. Những giải pháp này không chỉ nâng cao khả năng thích ứng của ngành nông nghiệp với điều kiện khí hậu khắc nghiệt mà còn góp phần đáng kể vào việc giảm phát thải khí nhà kính, qua đó hướng tới một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại và có khả năng chống chịu tốt hơn trong tương lai. Các chính sách tiêu biểu bao gồm:
Chính sách cơ cấu lại công nghiệp nông thôn
Chính phủ Thái Lan đã tập trung vào các công việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đất đai nông nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững. Chính phủ đánh giá tiềm năng phát triển để quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp, tạo ra những sản phẩm mũi nhọn. Tiêu biểu có các chương trình “Mỗi làng một sản phẩm”, mỗi làng xác định sản phẩm có ưu thế cạnh tranh của mình để tập trung sản xuất tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng cao.
Chính phủ Thái Lan đã đặt trọng tâm vào việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp và quản lý sử dụng đất nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững. Một trong những định hướng quan trọng là đánh giá tiềm năng từng vùng để quy hoạch khu vực sản xuất nông nghiệp chuyên biệt, thúc đẩy hình thành các sản phẩm mũi nhọn có thế mạnh.
Chính sách đất đai
Chính phủ Thái Lan đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ nông dân tiếp cận và sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả hơn. Giai đoạn 2010–2017, khoảng 750 hộ nông dân đã được giao đất với mức phí ưu đãi, trong điều kiện không được phép chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích sử dụng. Các hộ này được quy hoạch sản xuất theo mô hình CSA và hỗ trợ phát triển theo hướng doanh nghiệp nhỏ nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất – tiêu thụ. Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội quốc gia lần thứ 11 của Thái Lan đã đề ra ba mục tiêu cốt lõi: giao đất, cung cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật cho người dân hướng tới mô hình CSA (Phiboon và cộng sự, 2019).
Để đảm bảo điều kiện ứng dụng công nghệ, chính phủ cũng đã thực hiện các chính sách dồn điền đổi thửa, mở rộng quy mô canh tác nhằm thuận tiện cho áp dụng cơ giới hóa, nâng cao năng suất và giảm chi phí.
Chính sách tín dụng nông nghiệp cũng được triển khai mạnh mẽ. Thái Lan thực hiện xóa bỏ thuế nông nghiệp, đồng thời cung cấp các khoản vay ưu đãi, trong đó có nhiều khoản vay không lãi suất trong hai năm đầu và hỗ trợ phí sử dụng đất. Các chương trình bảo hiểm nông nghiệp, đặc biệt là bảo hiểm rủi ro sản xuất và xuất khẩu, được triển khai để giảm thiểu rủi ro cho người nông dân. Chính phủ đồng bộ hóa chính sách từ khâu giống, gieo trồng, sản xuất đến thị trường đầu ra, tạo tính liên thông và an toàn trong sản xuất nông nghiệp.
Ứng dụng công nghệ, thúc đẩy thông tin và kết nối quốc tế
Năm 2020, chính phủ Thái Lan đã dành 1 tỷ baht để hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các hỗ trợ bao gồm ưu đãi mua đầu vào nông nghiệp, hỗ trợ lãi suất thấp và định hướng phát triển các loại cây trồng chủ lực trong bối cảnh BĐKH. Ngoài ra, Thái Lan cũng triển khai các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức và chia sẻ thông tin về CSA, kết nối các chuyên gia, nông dân và cộng đồng nông nghiệp để trao đổi kinh nghiệm và cập nhật chiến lược thích ứng với khí hậu.
Đặc biệt, Thái Lan đã phát triển nhiều phần mềm ứng dụng di động nhằm hướng dẫn chi tiết về canh tác, điều kiện sinh trưởng của từng loại cây, thông tin thời tiết, và dự báo khí hậu. Dữ liệu này được gửi trực tiếp tới điện thoại nông dân, giúp họ chủ động hơn trong sản xuất và thích ứng với các thay đổi môi trường. Các ứng dụng cũng tích hợp hướng dẫn kỹ thuật CSA cho hoạt động trồng lúa – lĩnh vực dễ tổn thương nhất trước tác động của BĐKH. Ngoài ra, Thái Lan tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng mạng lưới liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu, trường đại học, viện khoa học và chuyên gia nông nghiệp. Qua mạng lưới này, người nông dân có thể tiếp cận kiến thức mới, cập nhật các quy chuẩn và tiêu chuẩn quốc tế trong phát triển nông nghiệp bền vững dưới tác động của BĐKH.
Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật và ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp
Việc ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại được coi là yếu tố then chốt giúp Thái Lan phát triển nền nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Chính phủ Thái Lan tích cực khuyến khích việc áp dụng các công nghệ tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời cung cấp giấy chứng nhận và miễn thuế trong vòng 5 năm cho các cơ sở ứng dụng công nghệ cao. Việc chuyển đổi giống cây trồng phù hợp với điều kiện khí hậu từng vùng được đẩy mạnh nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của BĐKH.
Công tác đào tạo kỹ thuật và nâng cao nhận thức cho nông dân được đặc biệt chú trọng. Chính phủ triển khai nhiều khóa đào tạo trực tiếp và trực tuyến về kỹ thuật canh tác, quản lý sản xuất và chuyển giao công nghệ. Năm 2019, hai chương trình lớn được khởi động là "Nông dân mới" và "Nông dân trẻ thông minh", hướng đến hỗ trợ đào tạo bài bản cho người nông dân dưới 45 tuổi. Ngoài ra, các chương trình hợp tác với đại học và viện nghiên cứu giúp phổ biến kiến thức sản xuất nông nghiệp hiện đại (Phiboon và cộng sự, 2019). Các chương trình đào tạo chuyên sâu, như khóa học 6 tháng kết hợp giữa học lý thuyết và thực hành tại đồng ruộng, đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp. Nhờ đó, Thái Lan có thể khai thác hiệu quả các vùng đất khô cằn, đồi núi thành khu vực canh tác năng suất cao với nhiều loại nông sản chiến lược.
Thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp
Đối phó với tình trạng gia tăng phát thải khí nhà kính, Thái Lan đã xây dựng chiến lược giảm phát thải trong nông nghiệp bằng cách thúc đẩy các thực hành canh tác bền vững như: tưới khô – ướt luân phiên, giảm sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học, và chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo. Chính phủ quan tâm đến bảo vệ và tăng diện tích rừng nhằm nâng khả năng hấp thụ carbon trong đất.
THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH THÍCH ỨNG VỚI BĐKH TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Để phát triển nông nghiệp trong bối cảnh rủi ro khí hậu ngày càng tăng, nhiều mô hình nông nghiệp tích hợp công nghệ thông minh đã được triển khai. Ngoài ra, còn có các mô hình liên quan đến quản lý nước, đất, nhằm canh tác hiệu quả cho cây trồng. Bên cạnh đó, những ứng dụng khác có thể kể tới như: áp dụng các giống cây trồng có khả năng chống chịu với điều kiện hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh, phát triển hệ thống nông lâm kết hợp, áp dụng trồng xen canh trong sản xuất cũng giúp điều hòa nhiệt hoặc trồng cây che phủ để giữ ẩm cho đất. Điều này cũng giúp nông dân đa dạng hóa thu nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất. Việc đẩy mạnh cơ cấu nền nông nghiệp, ứng dụng công nghệ số giúp nông dân canh tác chuẩn mực và thực hiện đầy đủ quy trình sản xuất quản lý cây trồng để tạo sự tin tưởng cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, mô hình quản lý nước tươi tiêu khi áp dụng công nghệ tưới nước thông minh cũng được đảm bảo theo chu kỳ sinh trưởng của cây. Mô hình này sẽ nắm kỹ thuật làm đất trước khi gieo hạt sẽ hạn chế được sâu bệnh tấn công. Đặc biệt, hình thức sử dụng máy bay không người lái đã được sử dụng, cho việc giám sát cây trồng, gieo sạ, phòng thuốc bảo vệ thực vật, bón phân…
Từ kinh nghiệm của Thái Lan và thực tiễn tại Việt Nam, theo tác giả, để phát triển nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, định hướng tái cơ cấu nông thôn thông qua quy hoạch phát triển dài hạn
Việt Nam cần hoàn thiện khung thể chế và chính sách pháp lý đồng bộ nhằm tạo lập môi trường thuận lợi và động lực mạnh mẽ cho CSA. Nhà nước cần xây dựng cơ sở pháp lý rõ ràng để các cấp quản lý có thể chủ động thiết kế quy hoạch phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện từng vùng, địa phương.
Bên cạnh đó, chính sách đất đai cần chuyển từ tiếp cận hành chính sang tiếp cận quyền sử dụng đất hiệu quả hơn. Kinh nghiệm Thái Lan và thực tiễn trong nước cho thấy, khi người sản xuất nông nghiệp được giao đất ổn định, dài hạn và linh hoạt trong mục đích sử dụng (kết hợp trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản...), họ sẽ mạnh dạn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất hiện đại. Việc này đòi hỏi những điều chỉnh về khung pháp lý để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân, đặc biệt trong các trường hợp nhà nước thu hồi đất.
Mặt khác, cần tăng cường liên kết giữa các kế hoạch sử dụng đất ngắn hạn và dài hạn, giữa các ngành và lĩnh vực để tránh tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp không kiểm soát, làm suy giảm diện tích canh tác.
Hai là, chú trọng phát triển hạ tầng và đầu tư nghiên cứu – động lực thúc đẩy nông nghiệp thông minh
Theo đó, cần đẩy mạnh đầu tư công vào phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, đặc biệt là hạ tầng phục vụ cơ giới hóa, vận chuyển vật tư và nông sản, nhằm tăng khả năng tiếp cận của nông dân với khu vực sản xuất và tạo điều kiện triển khai các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ 4.0. Bên cạnh hạ tầng, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ nông nghiệp đóng vai trò then chốt trong việc chuyển đổi mô hình nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp thông minh. Việt Nam cần tăng cường nguồn lực đầu tư vào hoạt động R&D nông nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế tham gia nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đồng thời thu hút các nguồn vốn quốc tế và thành lập quỹ hỗ trợ phát triển khoa học tại địa phương. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, phát minh trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần được chú trọng để tạo động lực đổi mới sáng tạo. Mặt khác, cần tập trung phát triển các thiết bị, máy móc nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao – đặc biệt là các giải pháp có tính thực tiễn và phù hợp với điều kiện canh tác tại Việt Nam – nhằm tăng năng suất, giảm tổn thất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0.
Ba là, tăng cường chính sách hỗ trợ và thúc đẩy phối hợp đa tác nhân trong phát triển nông nghiệp thông minh thích ứng với BĐKH
Chính phủ cần xây dựng các chính sách khuyến khích huy động nguồn lực từ cả khu vực công và tư, thúc đẩy đầu tư vào đổi mới nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao. Các hình thức hỗ trợ như: tín dụng ưu đãi cho nông dân, doanh nghiệp và hợp tác xã trong toàn bộ chuỗi giá trị nông sản – từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ – cần được mở rộng. Đồng thời, chính sách cần chú trọng đến việc nâng cao năng lực thông tin và kỹ thuật thông qua đào tạo và tư vấn, giúp người sản xuất tiếp cận nhanh với tri thức và công nghệ mới.
Thực tiễn từ Thái Lan cho thấy, xây dựng các nền tảng thông tin số như hệ thống website nông nghiệp, cung cấp dữ liệu về kỹ thuật CSA, thị trường tiêu thụ, đầu mối cung ứng vật tư, cùng với các dịch vụ tư vấn miễn phí đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm này thông qua việc thiết lập hệ thống thông tin số hóa toàn diện, kết nối các tác nhân trong chuỗi sản xuất – từ nhà cung cấp nguyên liệu, dịch vụ kỹ thuật đến thị trường đầu ra. Bên cạnh đó, công tác dự báo, truyền thông và cung cấp thông tin kịp thời về thời tiết, thị trường, và các rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu cũng cần được tăng cường nhằm nâng cao năng lực ứng phó cho nông dân.
Bên cạnh đó, phát triển CSA đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, hệ thống giữa các cơ quan quản lý nhà nước, giới khoa học, doanh nghiệp và người nông dân. Song song đó, Việt Nam cần đẩy mạnh xây dựng và thực thi kế hoạch hành động giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp – một mục tiêu quan trọng được cam kết tại Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: ứng dụng năng lượng sạch trong sản xuất, chuyển đổi sang các giống cây trồng và kỹ thuật canh tác sinh thái ít phát thải, cải tiến quy trình sử dụng phân bón và quản lý chất thải chăn nuôi. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế với các tổ chức trong lĩnh vực nông nghiệp và biến đổi khí hậu nhằm tiếp cận các nguồn lực tài chính, công nghệ và tri thức phục vụ quá trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp phát thải thấp và bền vững về môi trường./.
Tài liệu tham khảo
1. Agricultural Development and Commercialization (2022). Transforming Rural Communities in Thailand into CSA Learning Villages, Mekong Institute.
2. FAO (2010). “Climate-Smart” Agriculture Policies, Practices and Financing for Food Security, Adaptation and Mitigation, Food and Agriculture Organization of the United Nations.
3. IPCC (1995). Climate Change 1995, Impacts Assessment.
4. Juthamanee Sangsawang (2023), Community Supported Agriculture (CSA) – The Selective Way of Life for Unemployed Persons Affected by the PandemIC, Journal of Community Development Research, 12/2023.
5. Lê Phương Hoà, Hà Lê Huyền (2018), Ngành trồng trọt ở Thái Lan trong điều kiện biến đổi khí hậu, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8.
6. Ministry of Agriculture and Cooperatives (MOAC) (2023). The Climate Change Action Plan for the Agricultural Sector 2023-2027.
7. ONEP (2024). Thailand’s Fourth Biennial Update Report, Office of Natural Resources and Environmental Policy and Planning, retrievef from https://www.onep.go.th.
8. Phiboon K., Cochetel C and Faysse N. (2019). Support programmes and the diversity of young farmers in Thailand: a good match?, Outlook on Agriculture, 48(4), 300-308.
9. Pruethsan Sutthichaimethee, Phayom Saraphirom, Chaiyan Junsiri (2025), Long-Term Strategy for Determining the Potential of Climate-Smart Agriculture to Maximize Efficiency Under Sustainability in Thailand, Sustainability 2025, 17(8).
10. PRD (2025). Thailand's Agricultural exports climb to 15th, retrieved from https://thailand.prd.go.th/en/content/category/detail/id/2078/iid/363305.
11. Thailand Greenhouse Gas Management Organization (TGO) (2023). Net Zero GHG Emissions, retrievef from https://www.tgo.or.th/2023/index.php/th/page/PAG232.
12. Thatchakorn Khamkhunmuang (2020), Cases of Climate-Smart Agriculture in Southeast Asian highlands: Implications for ecosystem conservation and sustainability, Agriculture and Natural resouces, 56, 473-486.
13. UNDP (2008). Báo cáo Phát triển con người Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách.
Ngày nhận bài: 05/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/6/2025; Ngày duyệt đăng: 24/6/2025 |