Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nguồn nhân lực giảng viên giáo dục nghề nghiệp và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết tập trung phân tích kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực giảng viên giáo dục nghề nghiệp tại các quốc gia có hệ thống giáo dục nghề nghiệp tiên tiến như Đức, Australia, Singapore, Hoa Kỳ, Canada; nội dung tập trung vào các nội dung về tiêu chuẩn hóa đầu vào, tính linh hoạt trong tuyển dụng, yêu cầu kinh nghiệm thực tiễn...

ThS. Quách Thị Hảo

Khoa Kinh tế và Quản lý - Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội

Email: quachhaocdkt@gmail.com

Tóm tắt

Phát triển nguồn nhân lực giảng viên giáo dục nghề nghiệp là yếu tố then chốt bảo đảm chất lượng đào tạo, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với cả các nước phát triển và đang phát triển. Bài viết tập trung phân tích kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực giảng viên giáo dục nghề nghiệp tại các quốc gia có hệ thống giáo dục nghề nghiệp tiên tiến như Đức, Australia, Singapore, Hoa Kỳ, Canada; nội dung tập trung vào các nội dung về tiêu chuẩn hóa đầu vào, tính linh hoạt trong tuyển dụng, yêu cầu kinh nghiệm thực tiễn... Qua đó chỉ ra những điểm chung và khác biệt trong cách tiếp cận, đồng thời gợi mở bài học cho Việt Nam trong xây dựng nguồn nhân lực giảng viên giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường lao động và công nghiệp hiện đại.

Từ khóa: Giáo dục nghề nghiệp, giảng viên dạy nghề, đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm quốc tế

Summary

Developing a team of vocational education lecturers is a key factor in ensuring training quality, and at the same time a major challenge for both developed and developing countries. The article synthesizes and analyzes experiences from countries with advanced vocational education systems such as Germany, Nordic countries, Australia, Singapore, the United States, Canada. The content focuses on input standardization, flexibility in recruitment, requirements for practical experience, regular professional training mechanisms, and policies to retain talented people. Thereby, it points out the commonalities and differences in approaches, and suggests lessons for Vietnam in building a team of high-quality vocational education lecturers that adapt to the requirements of the labor market and modern industry.

Keywords: Vocational education, vocational teachers, vocational training, human resource development, international experience

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và kinh tế tri thức, cơ cấu việc làm toàn cầu đang dịch chuyển nhanh về các nghề đòi hỏi kỹ năng cao, tư duy số, năng lực vận hành công nghệ tự động hóa, robot, internet vạn vật (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI). Các doanh nghiệp (DN) rút ngắn vòng đời công nghệ, chuyển mạnh sang mô hình sản xuất tinh gọn và xanh, kéo theo chuẩn kỹ năng nghề biến động liên tục.

Ở hầu hết các quốc gia có hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) phát triển, giảng viên dạy nghề được coi là “điểm nút” đảm bảo chất lượng, giảng viên vừa phải giỏi nghề, vừa thành thạo sư phạm và am hiểu chuẩn năng lực nghề. Để nâng cao chất lượng giảng dạy, các nước thúc đẩy chuẩn “kép” cho nguồn nhân lực giảng viên GDNN về bằng cấp/chứng chỉ nghề và chứng chỉ sư phạm nghề; yêu cầu kinh nghiệm thực tế; cập nhật bắt buộc thông qua đào tạo bồi dưỡng liên tục và cơ chế trao đổi nhân sự với DN.

Việt Nam đang trong giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế số và kinh tế xanh. Các chiến lược phát triển GDNN, quy định pháp lý về tiêu chuẩn nhà giáo, kiểm định chất lượng và tự chủ cơ sở GDNN đã tạo nền tảng đổi mới. Tuy nhiên, chênh lệch cung - cầu kỹ năng vẫn hiện hữu ở nhiều ngành nghề chủ đạo trong nền kinh tế. DN đòi hỏi lao động có tay nghề theo chuẩn quốc tế, kỷ luật công nghiệp, kỹ năng số và kỹ năng “mềm”, trong khi không ít chương trình đào tạo còn mang nặng lý thuyết, chưa cập nhật quy trình mới phù hợp với tình hình hiện nay.

Mấu chốt của những tồn tại, hạn chế này là nguồn nhân lực giảng viên GDNN - yếu tố quyết định chuyển đổi khung chương trình và chất lượng thực hành kỹ năng nghề. Vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh nghiệm quốc tế về phát triển nguồn nhân lực giảng viên GDNN, từ đó đưa ra một số hàm ý cho Việt Nam là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA

Đức: Phát triển nguồn nhân lực giảng viên theo mô hình đào tạo “kép”

Đức là nước điển hình về hệ thống GDNN nhờ mô hình đào tạo “kép” kết hợp học tại trường nghề và thực hành tại DN. Mô hình này tác động đến cơ cấu và yêu cầu đối với giảng viên GDNN. Nước này chia ra thành 2 loại giảng viên gồm giảng viên lý thuyết và giảng viên thực hành.

Cụ thể, giảng viên lý thuyết được đào tạo chính quy tại các trường đại học sư phạm kỹ thuật, có bằng thạc sĩ hoặc tương đương, qua kỳ thi quốc gia và trở thành công chức nhà nước. Giảng viên thực hành xuất thân từ thợ lành nghề hoặc kỹ thuật viên có nhiều năm kinh nghiệm công nghiệp, phải hoàn thành khóa sư phạm nghề đặc biệt (1-2 năm) trước khi chính thức đứng lớp để giảng dạy cho sinh viên.

Đào tạo viên tại DN: Theo Luật Đào tạo nghề, bất kỳ công ty nào nhận học nghề đều phải có ít nhất một đào tạo viên đạt chuẩn, có chứng chỉ sư phạm DN. Điều đáng chú ý ở Đức là hệ thống pháp lý quy định rõ chuẩn tối thiểu của từng loại giảng viên/đào tạo viên; đồng thời, tạo lối vào nghề linh hoạt (tuyển kỹ sư công nghiệp, đào tạo bổ sung sư phạm). Chính sách này giúp duy trì chất lượng đào tạo khá đồng đều và gắn kết chặt chẽ nhà trường và DN.

Bài học cho Việt Nam: Cần xây dựng chuẩn kép (chuyên môn và sư phạm), công nhận kinh nghiệm công nghiệp và chuẩn hóa vai trò “đào tạo viên DN” để đảm bảo chất lượng thực tập.

Đan Mạch, Na Uy và Hà Lan: Chuẩn hóa kết hợp linh hoạt

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế - OECD (2022), Đan Mạch, Na Uy và Hà Lan có những điểm chung về giáo dục đào tạo dạy nghề theo các nội dung sau:

- Yêu cầu kép: Giảng viên GDNN phải có trình độ chuyên môn (cao đẳng/đại học) và chứng chỉ sư phạm.

- Kinh nghiệm công nghiệp bắt buộc: Ứng viên thường cần 2-5 năm làm việc thực tế trước khi tham gia giảng dạy tại các cơ sở GDNN.

- Linh hoạt trong tuyển dụng: Có thể cho phép tuyển giảng viên tạm thời chưa đạt chuẩn sư phạm, nhưng buộc bổ sung trong thời hạn nhất định.

- Đào tạo sư phạm: Các chương trình được thiết kế bán thời gian, giúp giảng viên vừa tham gia giảng dạy, vừa có thể học thêm các khóa để nâng cao trình độ, kỹ năng nghề.

- Phát triển nghề nghiệp: Quy định giờ bồi dưỡng hàng năm, khuyến khích giảng viên đi thực tế tại DN.

Bài học cho Việt Nam: Áp dụng cách tiếp cận “đầu vào có chuẩn - triển khai linh hoạt - đầu ra có giám sát”, nghĩa là giảng viên có thể tham gia giảng dạy nghề với năng lực chưa hoàn thiện, nhưng bắt buộc có lộ trình bổ sung, đồng thời giám sát đầu ra thông qua phát triển chuyên môn liên tục.

Australia và Singapore: Năng lực nghề và gắn kết công nghiệp

Tại Australia: Các giảng viên GDNN đều phải có Chứng chỉ IV về đào tạo và đánh giá - Chương trình sư phạm chuyên biệt cho dạy nghề. Bên cạnh đó, giảng viên GDNN bắt buộc phải duy trì kỹ năng nghề nghiệp cập nhật bằng cách định kỳ tham gia thực tế trong ngành. Cơ quan Quản lý chất lượng kỹ năng Australia (ASQA) giám sát công việc này nghiêm ngặt, giúp bảo đảm chất lượng tại các trường dạy nghề đảm bảo chất lượng tương đối đồng đều.

Tại Singapore: Phát triển đội ngũ giảng viên GDNN dựa trên các trụ cột như: Thu hút từ DN với chế độ đãi ngộ cạnh tranh và lộ trình thăng tiến rõ ràng; Cập nhật công nghệ liên tục: Giảng viên được cử đi học tập nước ngoài, tham gia thực tập tại DN, tiếp cận công nghệ mới qua các trung tâm được đánh giá xuất sắc và phát triển cá nhân hóa; Mỗi giảng viên có kế hoạch phát triển cá nhân gắn với đánh giá công việc và thăng tiến.

Bài học cho Việt Nam: Cần thiết kế chứng chỉ sư phạm nghề riêng biệt, kết hợp cơ chế bắt buộc cập nhật nghề và đãi ngộ cạnh tranh để thu hút các chuyên gia từ DN.

KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM

Phát triển nguồn nhân lực giảng viên GDNN trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế là yêu cầu cấp thiết. Từ kinh nghiệm của Đức, Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Úc, Singapore và Mỹ, có thể rút ra những khuyến nghị chính cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý và chuẩn nghề nghiệp giảng viên GDNN. Rà soát, ban hành chuẩn kép đối với giảng viên GDNN theo hướng vừa có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp, vừa có chứng chỉ sư phạm nghề.

Đồng thời, có cơ chế, chính sách quy định rõ các lộ trình vào nghề: (i) Sinh viên tốt nghiệp đại học/cao đẳng kỹ thuật học thêm chứng chỉ sư phạm; (ii) Thợ lành nghề/kỹ sư từ DN chuyển đổi sang giảng dạy thông qua đào tạo sư phạm; (iii) Nhân viên làm việc tại DN, nghệ nhân, cựu quân nhân có kỹ năng cao được cấp phép tạm thời, sau đó bổ sung kỹ năng sư phạm.

Thứ hai, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và DN. Nên có quy định bắt buộc hoặc khuyến khích giảng viên GDNN phải có thời gian định kỳ làm việc/thực tế tại DN tối thiểu từ 2-3 tháng/3-5 năm, để cập nhật công nghệ và kỹ năng nghề.

Khuyến khích cơ chế trao đổi nhân lực 2 chiều theo hướng giảng viên thực tế tại DN và chuyên gia DN vào giảng dạy theo hợp đồng thỉnh giảng. Song song với đó, thiết lập Quỹ Hỗ trợ DN tham gia đào tạo nghề, đặc biệt trong các ngành công nghệ mới (trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, năng lượng tái tạo).

Thứ ba, xây dựng hệ thống đào tạo và bồi dưỡng giảng viên giáo dục nghề nghiệp linh hoạt. Phát triển Chứng chỉ sư phạm nghề riêng biệt, ngắn hạn (6-12 tháng) tương tự Chứng chỉ IV (Australia) tập trung vào phương pháp dạy thực hành.

Thường xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng định kỳ theo hình thức tín chỉ tích lũy hoặc đào tạo trực tuyến, để giảng viên chủ động cập nhật kiến thức, kỹ năng.

Thứ tư, có chính sách thu hút nhân tài và tạo động lực cho giảng viên GDNN. Xây dựng chế độ đãi ngộ cạnh tranh: Lương và phụ cấp giảng viên dạy nghề cần tiệm cận mức thu nhập của nhân viên trong DN để giữ chân người giỏi.

Áp dụng cơ chế tôn vinh nghề nghiệp với danh hiệu “giảng viên nghề xuất sắc”, tạo cơ hội học tập quốc tế và hỗ trợ kinh phí nghiên cứu ứng dụng và phát triển tại các cơ sở GDNN.

Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong phát triển giảng viên GDNN. Triển khai công tác giảng dạy trên nền tảng đào tạo trực tuyến quốc gia cho giảng viên GDNN, cung cấp các khóa học mở, tài liệu số, diễn đàn trao đổi chuyên môn.

Khuyến khích giảng viên tham gia cộng đồng thực hành số, nơi họ có thể chia sẻ giáo án, bài giảng điện tử, học liệu mở. Đưa kỹ năng số và năng lực công nghệ thành tiêu chí bắt buộc trong chuẩn nghề nghiệp giảng viên GDNN.

Thứ sáu, tăng cường vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và hợp tác quốc tế. Phát triển hiệp hội giảng viên nghề theo lĩnh vực (kinh tế, cơ khí, điện, du lịch…), làm đầu mối kết nối, tổ chức hội thảo, xuất bản tài liệu và chuẩn hóa năng lực.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế thông qua hình thức trao đổi giảng viên, học tập mô hình đào tạo kép và triển khai các dự án hợp tác với OECD, Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Viện Giáo dục Kỹ thuật Singapore, hệ thống Giáo dục kỹ thuật và nâng cao - TAFE (Australia). Đồng thời, xây dựng cơ chế tài trợ cho giảng viên học tập khóa ngắn hạn ở nước ngoài, để cập nhật công nghệ và phương pháp giảng dạy tiên tiến.

KẾT LUẬN

Qua phân tích kinh nghiệm của các nước trên cho thấy một số điểm chung sau: (i) Coi trọng tiêu chuẩn kép, kết hợp giữa năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm; (ii) Gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với DN để đảm bảo tính thực tiễn của giảng dạy; (iii) Duy trì cơ chế phát triển chuyên môn liên tục cho giảng viên; (iv) Có chính sách đãi ngộ, tôn vinh nghề nghiệp nhằm thu hút, giữ chân nhân lực chất lượng cao.

Từ kinh nghiệm phát triển giảng viên GDNN của các nước, Việt Nam có thể tham khảo những bài học hữu ích trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa GDNN. Để đạt được mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực có tay nghề cao, đội ngũ giảng viên GDNN cần được chuẩn hóa, đồng thời có cơ chế linh hoạt trong tuyển dụng và bồi dưỡng, nhằm thu hút các chuyên gia từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó, việc tạo dựng sự gắn kết giữa nhà trường và DN, đầu tư cho chuyển đổi số, cũng như chính sách đãi ngộ và phát triển nghề nghiệp rõ ràng cho giảng viên, là những yếu tố cần được ưu tiên trong thời gian tới.

Nhìn chung, phát triển nguồn nhân lực giảng viên GDNN là nhiệm vụ chiến lược trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây là một yêu cầu mang tính cấp bách và dài hạn, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, cơ sở đào tạo, DN và toàn xã hội.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022). Báo cáo thường niên giáo dục nghề nghiệp Việt Nam 2021, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2023). Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội.

3. BIBB - Federal Institute for Vocational Education and Training (2021). Vocational Training in Germany.

4. Cedefop (2020). Developing the teaching workforce in VET: European experiences.

5. Department of Education and Training, Australia (2020). Certificate IV in Training and Assessment Guidelines.

6. Institute of Technical Education - Singapore (2021). Annual Report.

7. Nguyễn Thị Thanh và Lê Quang Cường (2021). Phát triển đội ngũ giảng viên giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Giáo dục nghề nghiệp, số 65, tr. 15-21.

8. OECD (2022). Strengthening Vocational Education and Training (VET) Systems. OECD Publishing.

9. Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (2022). Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GDNN đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0, Hà Nội.

10. US Department of Education (2021). CTE Teacher Preparation and Licensure.

Ngày nhận bài: 24/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 16/8/2025; Ngày duyệt đăng: 26/8/2025