Tác giả chính; tác giả liên hệ: PGS.TS. Nguyễn Quang Phục
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế
Email: nqphuc@hce.edu.vn
ThS. Trần Anh Hà
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
ThS. Thân Bá Tuấn
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế
Tóm tắt
Sử dụng khung phân tích sinh kế bền vững, nghiên cứu này được thực hiện tại 4 địa phương vùng ven TP. Huế nhằm phân tích, đánh giá thực trạng chiến lược và kết quả sinh kế của hộ nông dân trong bối cảnh đô thị hóa. Nghiên cứu cho thấy hầu hết các hộ vùng ven TP. Huế được chọn khảo sát đều theo đuổi chiến lược sinh kế hỗn hợp như một sự lựa chọn tối ưu trong bối cảnh đô thị hóa. Nông nghiệp vẫn được duy trì như một hình thức “bảo hiểm sinh kế” trước những rủi ro từ thị trường lao động phi nông nghiệp. Chính sách hỗ trợ nhằm đa dạng hóa hoạt động sinh kế, phát triển nông nghiệp ven đô và tăng cường đảm bảo an sinh xã hội là những nhóm giải pháp cần được quan tâm bởi các bên liên quan.
Từ khóa: Nông nghiệp ven đô, sinh kế, đô thị hóa, Huế
Summary
Using the sustainable livelihoods approach, this study was conducted in four peri-urban areas surrounding Hue City to analyze and assess the livelihood strategies and outcomes of farming households in the context of urbanization. The findings indicate that most surveyed households pursue mixed livelihood strategies as an optimal response to the urbanization. Agriculture continues to be maintained as a form of "livelihood insurance" against the risks from the non-agricultural labor market. Policy support aimed at diversifying livelihood activities, developing peri-urban agriculture, and strengthening social security should be prioritized by relevant stakeholders.
Keywords: Peri-urban agriculture, livelihoods, urbanization, Hue
ĐẶT VẤN ĐỀ
Huế được biết đến như một thành phố di sản, một trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa tại đây diễn ra rất mạnh mẽ, với việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và xuất hiện nhiều khu đô thị mới như An Vân Dương, An Cựu City, Vicoland, An Đông Villa, Royal Park… Đặc biệt, từ khi Huế được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt cho phép mở rộng phạm vi thành phố từ 70km2 lên 265,99km2 (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 2021), quá trình đô thị hóa vùng ven đô càng trở nên sôi động hơn.
Vùng ven đô (peri-urban) là sự kết hợp giữa 2 từ peripheral (ngoại biên) và urban (đô thị). Đây là nơi vừa có các hoạt động đặc trưng của nông thôn vừa có các hoạt động mang tính chất thành thị (Đào Thế Anh và cộng sự, 2019; McGee, 1991). Vùng này không tồn tại độc lập mà nằm trong một miền liên thông nông thôn - ven đô - thành thị và chịu tác động mạnh mẽ bởi quá trình đô thị hóa (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2005). Đô thị hóa tạo ra những thay đổi đáng kể về tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó, thay đổi về sinh kế của hộ nông dân là một trong những vấn đề cần được quan tâm.
Nghiên cứu sinh kế của hộ nông dân vùng ven các thành phố trong quá trình đô thị hóa không phải là một vấn đề mới ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, nhưng vấn đề này vẫn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, cơ quan truyền thông và những người làm chính sách phát triển, vì những tác động đa chiều của đô thị hóa đến đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa và môi trường của cộng đồng dân cư. Gần đây, nhiều nghiên cứu được thực hiện ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (Bùi Văn Tuấn, 2015; Đào Thế Anh và cộng sự, 2019; Trần Thị Vân, 2008) nhưng rất ít các nghiên cứu tương tự được triển khai ở các thành phố có quy mô vừa và nhỏ. Sử dụng khung phân tích sinh kế bền vững, nghiên cứu này được thực hiện tại 4 địa phương vùng ven TP. Huế nhằm phân tích, đánh giá thực trạng chiến lược và kết quả sinh kế của hộ nông dân trong bối cảnh đô thị hóa, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm sinh kế bền vững cho hộ nông dân ở khu vực này trong thời gian tới.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sinh kế và chiến lược sinh kế
Sinh kế (Livelihoods) là những phương thức cho một cuộc sống. Sinh kế không đồng nghĩa với thu nhập, bởi vì nó quan tâm trực tiếp đến những phương thức (cách thức - ways, means) mà một cuộc sống đạt được (Ellis, 2000). Chambers và Conway (1992) cho rằng, sinh kế là sự kết hợp những khả năng, các nguồn vốn tài sản (vốn con người, vốn vật chất, vốn vật tài chính, vốn xã hội, vốn tự nhiên) và những hoạt động cần thiết để duy trì cuộc sống của một cá nhân hay hộ gia đình. Sinh kế được coi là bền vững khi có thể đương đầu và vượt qua những áp lực và sốc, đồng thời duy trì hoặc nâng cao khả năng cũng như tài sản ở cả hiện tại và tương lai nhưng không gây ảnh hưởng đến nguồn lực tự nhiên. Hiểu biết và đánh giá đúng cũng như biết kết hợp tối ưu các nguồn vốn sẽ góp phần tạo ra một chiến lược sinh kế phù hợp.
Chiến lược sinh kế, theo Ellis (2000) là sự kết hợp các hoạt động nhằm tạo ra phương thức để duy trì sự tồn tại của hộ gia đình. Theo Cơ quan Phát triển quốc tế của Anh (DFID), mục tiêu của chiến lược sinh kế là nhằm tăng thu nhập, tăng an sinh xã hội, giảm khả năng gây tổn thương, đảm bảo an ninh lương thực và sử dụng bền vững hơn các nguồn lực tự nhiên (DFID, 2001). Việc phân tích, đánh giá chiến lược sinh kế của hộ nông dân vùng ven đô thành phố Huế trong bối cảnh gia tăng quá trình đô thị hóa sẽ góp phần quan trọng vào việc kịp thời giải quyết những vấn đề đang đặt ra liên quan sinh kế của hộ nông dân ở khu vực này.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng khung phân tích sinh kế bền vững được phát triển bởi DFID. Khung sinh kế bền vững nhấn mạnh tầm quan trọng của các nguồn vốn, tài sản, thể chế, chính sách, chiến lược sinh kế, bối cảnh tổn thương và quá trình thay đổi của sinh kế. Đặc biệt, khung sinh kế bền vững xem xét mối tương quan của các yếu tố trong bối cảnh sinh kế bền vững.
Phương pháp chọn mẫu khảo sát với dung lượng 160 mẫu đã được thực hiện tại 4 địa phương ven đô của TP. Huế bao gồm: Hương Sơ và Hương Long (Bắc sông Hương); Thuỷ Vân và Phú Thượng (Nam sông Hương). Hộ nông dân vùng ven được xác định là những hộ có một phần hoặc toàn bộ sinh kế dựa vào sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phương pháp so sánh để đánh giá tình hình đô thị hóa, sự thay đổi về khía cạnh tự nhiên, kinh tế và xã hội của các địa phương; dùng để phân tích nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế của hộ nông dân vùng ven TP. Huế trong bối cảnh đô thị hóa.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Huế là thành phố trực thuộc Trung ương, được biết đến như một thành phố di sản, một trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của Việt Nam. Trong những năm gần đây, quá trình mở rộng đô thị diễn ra rất mạnh mẽ với sự hoàn thiện hơn hệ thống cơ sở hạ tầng và xuất hiện nhiều khu đô thị mới, đặc biệt là từ khi Huế được Ủy ban Thường vụ Quốc Hội phê duyệt cho phép mở rộng phạm vi thành phố từ 70km2 lên 265,99km2 (Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, 2021) thì vùng ven Thành phố có nhiều thay đổi hơn.
Thay đổi về cơ sở hạ tầng và không gian lưu trú
Sự thay đổi về cơ sở hạ tầng ở các địa phương ven đô là một trong những chuyển đổi mạnh mẽ nhất dưới tác động của sự phát triển đô thị. Nhiều tuyến đường mới được xây dựng trong khi các tuyến đường cũ được nâng cấp ở cấp xã/phường. Nhiều khu đô thị mới như An Vân Dương, An Cựu City, Đông Nam Thụy An, Phú Mỹ Thượng, APEC An Vân Dương, EcoGarden, Royal Park được xây dựng ở vùng ven đô thị.
Thay đổi về quy mô dân số
Số liệu thống kê cho thấy, năm 2013, tổng dân số các địa phương vùng ven TP. Huế chỉ là 90.227 người nhưng đã tăng lên 117.273 người trong vòng 10 năm sau. Xu hướng tăng này chủ yếu là do sự gia tăng dân số tự nhiên ở khu vực này, sự di cư của cư dân thành thị cũng như cư dân từ nhiều vùng khác vào sinh sống tại các làng ven đô và khu đô thị mới.
Hình 1. Gia tăng dân số ở các địa phương ven TP. Huế
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), năm 2024
Thay đổi về kinh tế
Việc mở rộng đô thị ra vùng ven và thu hồi đất nông nghiệp đã tác động đáng kể đến sự chuyển đổi kinh tế của các địa phương. Cơ cấu kinh tế vùng ven đã dần chuyển dịch theo hướng thương mại, dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp. Việc cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và đổi mới thể chế góp phần tăng số lượng doanh nghiệp được thành lập mới hoặc có trụ sở chính tại khu vực ven đô, từ 539 doanh nghiệp năm 2010 lên gần 1.000 doanh nghiệp năm 2024. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người dân nơi đây.
CHIẾN LƯỢC SINH KẾ CỦA HỘ NÔNG DÂN VÙNG VEN TP. HUẾ
Kết quả khảo sát cho thấy, có 2 loại chiến lược sinh kế chính được các hộ nông dân vùng ven sử dụng để thích ứng với quá trình đô thị hóa, đó là: chiến lược sinh kế dựa vào nông nghiệp và chiến lược sinh kế hỗn hợp.
Chiến lược sinh kế dựa vào nông nghiệp
Trong số 160 hộ nông dân được khảo sát, có 8 hộ (5%) duy trì chiến lược sinh kế dựa hoàn toàn vào hoạt động nông nghiệp. Chủ hộ có độ tuổi khá lớn (100% trên 50 tuổi) và trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp còn lại trung bình sau khi thu hồi là 1.680 m2, không đủ để đảm bảo sinh kế nếu chỉ dựa vào nghề nông. Do đó, một số hộ đã thuê thêm đất nông nghiệp để kết hợp trồng lúa, rau và chăn nuôi. Tuy nhiên, lợi ích từ việc làm nông nghiệp là rất hạn chế. Trong số 8 hộ gia đình được phỏng vấn, 4 hộ có vốn con người tốt hơn (trình độ học vấn và lao động cao hơn) và đa dạng hóa các hoạt động nông nghiệp (sản xuất lúa gạo, rau và chăn nuôi) để giảm thiểu rủi ro nên có kết quả sinh kế tốt hơn. Ngược lại, chủ hộ là những người già, góa bụa và trình độ học vấn hạn chế là những người dễ bị tổn thương và có cuộc sống khó khăn hơn.
Chiến lược sinh kế hỗn hợp
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 95% hộ nông dân được khảo sát chọn sinh kế hỗn hợp trên cơ sở kết hợp hoạt động nông nghiệp với phi nông nghiệp, đặc biệt là ở Hương Long và Thuỷ Vân - nơi đất nông nghiệp còn dồi dào. Đây là những hộ có chủ hộ lớn tuổi (63,7% chủ hộ trên 50 tuổi), phần lớn bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất nông nghiệp (65% số hộ). Nguồn nhân lực dồi dào, trung bình mỗi hộ có 5,2 người và khoảng 3,1 lao động, phản ánh khả năng tham gia vào quá trình đa dạng hóa sinh kế. Mặc dù là chiến lược sinh kế hỗn hợp nhưng có đến 3 nhóm chiến lược sinh kế khác nhau được nhóm hộ này lựa chọn để phù hợp hơn với các loại tài sản sinh kế hiện có cũng như phù hợp hơn với bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Bảng 1: Đặc điểm chung của những hộ có chiến lược sinh kế hỗn hợp
Chỉ tiêu | ĐVT | Hương Sơ | Hương Long | Thuỷ Vân | Phú Thượng | BQC |
1. Số hộ | Hộ | 37 | 40 | 38 | 37 | 152 |
2. Tuổi của chủ hộ | % |
| ||||
- Trên 50 tuổi | 59,5 | 60,4 | 73,3 | 59,5 | 63,7 | |
- Dưới 50 tuổi | 40,5 | 30,6 | 23,7 | 40,5 | 36,3 | |
3. TĐVH của chủ hộ | % |
| ||||
- Tiểu học | 62,2 | 39,6 | 52,6 | 43,2 | 48,8 | |
- THCS | 32,4 | 33,3 | 21,1 | 54,1 | 35,0 | |
- Khác | 5,4 | 27,1 | 26,3 | 2,7 | 16,2 | |
4. Tình hình thu hồi đất | % |
| ||||
- Có đất bị thu hồi | 75,7 | 56,3 | 65,8 | 67,6 | 65,6 | |
- Không bị thu hồi đất | 24,3 | 43,8 | 34,2 | 32,4 | 34,4 | |
5. Đất nông nghiệp | m2 |
|
|
|
|
|
- Diện tích đất NN bị thu hồi | 650 | 1.585 | 1.385 | 1.346 | 1.266 | |
- Diện tích đất NN hiện tại | 2.230 | 1.090 | 1.901 | 1.106 | 1.550 | |
- Số hộ thuê thêm đất NN | Hộ | 6 | 2 | 2 | 3 | 13 |
6. Số nhân khẩu | Người | 5,5 | 5,0 | 5,6 | 4,4 | 5,2 |
7. Lao động | 3,3 | 2,9 | 3,2 | 3,1 | 3,1 |
Nguồn: Số liệu khảo sát năm 2023
- Kết hợp công việc được trả lương với nông nghiệp: Có đến 33,6% số hộ lựa chọn chiến lược kết hợp công việc được trả lương với nông nghiệp. Nhóm này có đến 3 chủ hộ có trình độ cao đẳng và đại học, có nguồn lực lao động dồi dào (bình quân 3,43 người/hộ), lao động phi nông nghiệp chiếm hơn 2/3 tổng lao động của hộ. Có 4 hộ thuê thêm đất nông nghiệp để canh tác (trồng lúa nước và rau màu), bình quân thuê 2.937m2/hộ. Với lợi thế về nguồn vốn con người, nhóm hộ này đầu tư khoảng 45% tiền bồi thường vào các hoạt động tạo thu nhập như trả tiền thuê đất nông nghiệp, đầu tư phân bón, nâng cao trình độ tay nghề... phần còn lại được đầu tư cho nhà ở và vật dụng gia đình.
- Kết hợp lao động mùa vụ với nông nghiệp: Chiến lược sinh kế này được đặc trưng bởi những hộ gia đình phần lớn có sinh kế phụ thuộc vào công việc mùa vụ, có tính chất tạm thời, lương thấp và ít đòi hỏi trình độ học vấn. Nam giới thường làm thợ xây, phụ nữ kết hợp nội trợ, đan lát, làm nón lá với các hoạt động nông nghiệp. Đặc điểm nổi bật của nhóm hộ này là có nguồn vốn con người rất dồi dào với quy mô nhân khẩu và lao động cao nhất trong 3 nhóm theo đuổi chiến lực sinh kế hỗn hợp, bình quân 5,31 người/hộ và 3,43 lao động/hộ. Có 30/51 hộ bị thu hồi đất (chiếm 58,8%), bình quân mỗi hộ bị thu hồi 1.405m2, cao hơn 2 nhóm hộ còn lại. Việc làm và thu nhập thiếu tính ổn định trong khi đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp hoặc khó tiếp cận, vấn đề đặt ra ở đây là liệu sinh kế của nhóm hộ này có đem lại một kết quả sinh kế bền vững hay không.
- Kết hợp kinh doanh nhỏ với nông nghiệp: Hoạt động kinh doanh (buôn bán và dịch vụ) bao gồm bán tạp hóa, bán hàng ăn uống, cho thuê phòng trọ, tiệm bán trái cây… thường có quy mô nhỏ và đang trở thành một lựa chọn sinh kế chủ yếu của nhiều hộ nông dân ở hầu hết các địa phương được chọn khảo sát. Kết quả khảo sát cho thấy, có 56 hộ trong tổng số 152 hộ (chiếm 36,8%) lựa chọn chiến lược sinh kế này. Điều này cho thấy, đô thị hóa đã tạo động lực để người nông dân chuyển đổi nghề nghiệp từ nông nghiệp sang kinh doanh dịch vụ ngay chính nơi họ sinh sống - điều mà họ trước đây chưa từng nghĩ đến thì nay họ đã coi trọng các ngành nghề dịch vụ, buôn bán nhỏ tại địa phương và xem đây là một loại hình sinh kế quan trọng trong thời điểm hiện tại và tương lai. Nếu như người dân địa phương làm chủ các cửa hàng tạp hóa, quán ăn vỉa hè hay lô tạp hóa ở các chợ thì đa số các cửa hàng ăn uống có quy mô vừa như nhà hàng hay quán cà phê có máy lạnh với wifi miễn phí, tiệm trà sửa, shop hoa tươi… là do người dân nhập cư (cư dân mới) làm chủ. Mặc dù việc làm và thu nhập ổn định nhưng nhiều gia đình vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp trên mảnh ruộng còn lại của mình, một mặt để duy trì sinh kế truyền thống; mặt khác là để đảm bảo tự cung tự cấp về lương thực cho gia đình - như một bảo hiểm sinh kế để ứng phó với những rủi do quá trình kinh doanh và dịch vụ có thể đem lại.
KẾT QUẢ SINH KẾ CỦA HỘ NÔNG DÂN VÙNG VEN TP. HUẾ
Kết quả khảo sát cho thấy, nguồn thu nhập của hộ từ nông nghiệp chiếm 16,4%, từ hoạt động phi nông nghiệp chiếm 82,0%, còn lại là từ nguồn thu khác (1,59%). Đối với nhóm hộ chỉ dựa vào nông nghiệp, gần 70% thu nhập đến từ nông nghiệp và gần 30% là từ các nguồn thu nhập khác như trợ cấp, người neo đơn hoặc từ lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Thu nhập của nhóm hộ theo đuổi chiến lược sinh kế hỗn hợp cao gấp 3,5 lần so với chiến lược sinh kế chỉ dựa vào nông nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, vì tính chất ổn định và thu nhập cao nên những hộ kết hợp công việc được trả lương với nông nghiệp có nguồn thu nhập phi nông nghiệp (tiền lương) cao hơn các nhóm còn lại. Điều đáng kỳ vọng ở đây là nhóm kinh doanh dịch vụ thường phải có nguồn thu nhập cao hơn các nhóm khác vì khả năng sinh lợi và tính tự chủ của hoạt động kinh doanh, dịch vụ, nhưng kết quả khảo sát cho thấy thu nhập bình quân/hộ lại thấp hơn 2 nhóm hộ còn lại. Điều này cho thấy phần lớn hoạt động kinh doanh, dịch vụ của hộ nông dân vẫn ở quy mô nhỏ, mang tính chất hộ kinh doanh chứ chưa thành lập các doanh nghiệp với quy mô lớn hơn.
Đánh giá về cuộc sống hiện tại so với trước khi bùng nổ quá trình đô thị hóa, có đến 76% số người được hỏi cho rằng họ có cuộc sống tốt hơn, 15% cho rằng cuộc sống không có nhiều thay đổi và 9% trả lời cuộc sống của họ nhìn chung là kém hơn so với trước đây. Điều này cho thấy, đô thị hóa vùng ven mang lại sự hoàn thiện hơn hệ thống cơ sở hạ tầng, không gian sống tốt hơn, người dân tiếp cận dễ dàng hơn các tiện ích của cuộc sống, tiếp cận nhiều cơ hội nghề nghiệp và nhờ đó người dân có cuộc sống tốt hơn.
Bên cạnh những kết quả tích cực, đô thị hóa và thu hồi đất nông nghiệp ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tự cung tự cấp lương thực của hộ nông dân. Số liệu khảo sát cho thấy, cách đây 3 đến 5 năm, có đến 87% số hộ cho rằng họ có thể tự chủ về lương thực từ 1 năm trở lên nhưng hiện tại chỉ có 46,2% số hộ có thể tự chủ về lương thực. Có đến 22,4% số hộ phải mua lương thực để tiêu dùng hàng ngày. Hậu quả của đô thị hóa đã chuyển đổi vai trò của hộ nông dân từ “người sản xuất lương thực” sang “người tiêu dùng lương thực”.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM SINH KẾ BỀN VỮNG CHO HỘ NÔNG DÂN VÙNG VEN TP. HUẾ TRONG BỐI CẢNH ĐÔ THỊ HÓA
Từ các kết quả khảo sát nêu trên, nghiên cứu này đề xuất các giải pháp bảo đảm sinh kế bền vững cho hộ nông dân vùng ven TP. Huế trong bối cảnh đô thị hóa. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo đảm sinh kế bền vững cho hộ nông dân vùng ven TP. Huế, đồng thời thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra một cách công bằng và bền vững hơn.
Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế và đa dạng hóa sinh kế
Tập trung đẩy mạnh đào tạo nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phi nông nghiệp. Ưu tiên các chương trình đào tạo nghề linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thị trường lao động đô thị và vùng ven.
Thúc đẩy phát triển các mô hình kinh tế phi nông nghiệp và dịch vụ đa dạng bằng cách tăng cường hỗ trợ các hộ nông dân chuyển đổi từ mô hình kinh doanh nhỏ lẻ sang các hình thức kinh doanh có quy mô lớn hơn, có thể liên kết thành hợp tác xã hoặc phát triển hộ kinh doanh thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua các chính sách ưu đãi về vốn, công nghệ, đào tạo và thuế thu nhập.
Nhóm giải pháp về phát triển nông nghiệp ven đô gắn với du lịch trải nghiệm và du lịch sinh thái
Cần thay đổi quan điểm và nâng cao nhận thức của lãnh đạo Thành phố về vai trò, chức năng của nông nghiệp ven đô trong mối quan hệ phát triển đô thị Huế.
Ưu tiên quy hoạch chi tiết về sử dụng đất và phát triển nông nghiệp ven đô.
Xây dựng cơ chế hợp tác và liên kết giữa ngành nông nghiệp và ngành du lịch, đặc biệt là du lịch trải nghiệm, du lịch khám phá, du lịch cộng đồng.
Thành lập trung tâm phát triển nông nghiệp đô thị/ven đô để quản lý và tổ chức phát triển nông nghiệp. Ngoài nhiệm vụ quản lý nhà nước, Trung tâm có nhiệm vụ liên kết với các bên liên quan, đặc biệt là hộ nông dân để xây dựng các mô hình nông nghiệp. Tổ chức đào tạo, huấn luyện, chuyển giao khoa học công nghệ cho người nông dân.
Nhóm giải pháp về an sinh xã hội và phát huy giá trị văn hóa cộng đồng
Cần hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư và bảo đảm bền vững về an sinh xã hội cho người dân bị thu hồi đất. Sự chia sẻ trách nhiệm từ chủ đầu tư dự án trong hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho người dân đóng vai trò rất quan trọng.
Quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng xã trong bối cảnh đô thị hóa. Quy hoạch và đầu tư xây dựng các trung tâm văn hóa để tạo không gian sinh hoạt chung, nơi giao lưu, gắn kết cộng đồng dân cư mới và cũ.
KẾT LUẬN
Đô thị hóa tác động sâu rộng, đa chiều và tích cực đến sinh kế của hộ nông dân. Cơ cấu kinh tế và lao động chuyển dịch mạnh mẽ, từ chỗ chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp. Nhiều cơ hội việc làm phi nông nghiệp được tạo ra giúp đa dạng hóa sinh kế và kết quả là hầu hết các hộ gia đình đều cho rằng cuộc sống hiện tại của họ tốt hơn so với trước đây. Trong bối cảnh đô thị hóa và thu hồi đất đai nhưng nhiều hộ nông dân vẫn duy trì các hoạt động sản xuất nông nghiệp như một hình thức “bảo hiểm sinh kế” trước những rủi ro từ thị trường lao động phi nông nghiệp. Điều này gợi ý cho chính quyền địa phương cần phải quan tâm đến vấn quy hoạch đất sản xuất nông nghiệp, phát triển mô hình nông nghiệp ven đô gắn kết với du lịch trải nghiệm/du lịch sinh thái. Nghiên cứu này khuyến nghị rằng bảo đảm sinh kế bền vững cho hộ nông dân vùng ven không chỉ là vấn đề an sinh xã hội mà còn là yếu tố quan trọng góp phần ổn định đời sống dân cư, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình phát triển đô thị. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng vào việc đảm bảo sinh kế bền vững cho hộ nông dân vùng ven TP. Huế, đồng thời thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra một cách hài hòa và bền vững.
(*) Nghiên cứu được thực hiện trước thời điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Văn Tuấn (2015). Thực trạng và giải pháp đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 31, Số 5: 96-108.
2. Chambers and Conway (1991). Sustainable rural livelihoods: Practical concepts for the 21st century. Discussion Paper No 296. Brighton: IDS.
3. DFID. (2001) Sustainable Livelihood Guidance Sheets. London: Department for International Development.
4. Đào Thế Anh và cộng sự (2019). Phát triển nông nghiệp ven đô bền vững ở Việt Nam. Nxb Nông nghiệp.
5. Ellis F. (2000). Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries. Oxford University Press.
6. McGee, T. G. (1991). The emergence of Desakota regions in Asia: Expanding a hypothesis. In: Ginsburg, N., Koppel, B., and McGee, T.G. (Eds). The extended metropolis: Settlement transition in Asia. University of Hawaii Press, Honolulu.
7. Nguyễn Hữu Minh và cộng sự (2005). Biến đổi kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa. Tạp chí Xã hội học, số 1 (89): 56-65.
8. Tran Thi Van (2008). Research on the effect of urban expansion on agricultural land in Ho Chi Minh City by using remote sensing method. VNU Journal of Science, Earth Sciences 24 (pp. 104-111).
9. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2021). Nghị quyết số 1264/NQ-UBTVQH14 ngày 27/4/2021 về việc điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính cấp huyện và sắp xếp, thành lập các phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày nhận bài: 12/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 5/8/2025; Ngày duyệt đăng: 7/8/2025 |