ThS. Lê Thị Tố Nga
Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại TP. Đà Nẵng
NCS Viện Kinh tế - Xã hội - Môi trường, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Phát triển khu công nghiệp sinh thái là một định hướng quan trọng trong xây dựng các khu công nghiệp theo hướng bền vững ở Việt Nam. Dựa trên tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cùng việc phân tích thực tiễn, bài viết đề xuất một số định hướng nhằm định hình mô hình khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam, góp phần hoàn thiện thể chế và hành lang pháp lý tạo điều kiện cho việc vận hành và phát triển mô hình này trong thực tiễn.
Từ khóa: Khu công nghiệp sinh thái, Việt Nam, tiêu chí đánh giá khu công nghiệp sinh thái, phát triển bền vững
Summary
The development of eco-industrial parks is a crucial orientation in building industrial zones towards sustainability in Viet Nam. Based on a review of domestic and international studies, combined with practical analysis, this article proposes outlines several directions for establishing the eco-industrial park model in Viet Nam. These efforts contribute to improving institutions and the legal framework, thereby facilitating the operation and development of this model in practice.
Keywords: Eco-industrial park, Viet Nam, eco-industrial park evaluation criteria, sustainable development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu công nghiệp sinh thái (EIP) được coi là một giải pháp bền vững cho phát triển khu công nghiệp (KCN) trên thế giới. Mặc dù ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện về lý luận cũng như mô tả thực tiễn triển khai EIP ở các địa phương hay các quốc gia trên toàn cầu (Tudor và cộng sự, 2007), tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một hệ thống tiêu chí thống nhất để xác định và định hình về EIP (Guillermo và cộng sự, 2016). Ở các quốc gia khác nhau có các mô hình quản lý, định dạng phát triển EIP theo những cách khác nhau (Beijia và cộng sự, 2019) và đã đem lại những kết quả khác nhau, đồng thời tạo nên thực tiễn vô cùng phong phú về phát triển các EIP.
Tại Việt Nam, mô hình EIP được Nhà nước quan tâm và triển khai thí điểm từ những năm 2014 (UNIDO, MPI, 2019) và đã từng bước thiết lập, hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho loại hình KCN này phát triển. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều KCN chuyển đổi hoạt động theo mô hình EIP. Tuy nhiên, quá trình xác lập một lộ trình cụ thể cho sự vận hành và phát triển các EIP vẫn còn không ít khó khăn. Vì vậy, việc phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, từ đó xác định những kinh nghiệm thực tiễn cho Việt Nam về định hình EIP là cần thiết.
ĐỊNH HÌNH KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI
“Định hình” theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là làm cho cái gì đó trở thành một hình thái ổn định. Theo quan điểm của tác giả, định hình EIP là việc xác định rõ hình dạng, khuôn mẫu, lộ trình cho EIP có thể vận hành và phát triển. Định hình EIP được thực hiện thông qua việc xác định lộ trình và các giai đoạn của EIP, tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn chỉnh của EIP theo từng giai đoạn và chứng nhận EIP hoàn chỉnh, để phân định với các EIP có định hướng sinh thái hoặc đang vận hành theo tiêu chuẩn sinh thái.
Hiện nay, chưa có một khuôn khổ chung để định hình EIP trên thế giới. Về mặt lý thuyết, kết quả của các nghiên cứu lý luận đã xác lập những hiểu biết cơ bản về khái niệm, nội hàm, đặc điểm, biểu hiện và những yếu tố cấu thành để có thể nhận dạng một EIP. Về mặt thực tiễn, một số quốc gia và khu vực cũng đã có các chương trình phát triển EIP, trong đó có quy định cụ thể về những giai đoạn hoặc các cấp độ phát triển EIP và tương ứng với nó là các bộ tiêu chí để xác định các mức độ đạt được về mặt sinh thái (Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Mỹ).
Tại Thái Lan, Somchint và các cộng sự đã xây dựng một bộ tiêu chí xác định EIP dựa trên các chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường (Somchint và cộng sự, 2017). Bộ chỉ số đã được thử nghiệm tại KCN lớn nhất Thái Lan, với 43 chỉ số cần thiết để xác định EIP và hỗ trợ hoạt động của chúng. Việc đo lường mức độ hoàn thành các chỉ tiêu này được xác định thông qua phương pháp cho điểm. Tuỳ theo từng mức điểm, các EIP được xếp hạng theo 3 mức: cấp độ xanh, cấp độ vàng và cấp độ bạch kim. Việc thực hiện các chỉ số mức bạch kim cần phải được giám sát chặt chẽ, cũng như cho phép một khung thời gian hợp lý để chứng nhận EIP.
Một trong những quốc gia có chương trình phát triển EIP bài bản và thành công là Trung Quốc. Quốc gia này cũng đã xây dựng lộ trình và các tiêu chí tương ứng cho từng giai đoạn phát triển của EIP. Theo Beijia Huang và cộng sự (2019), hiện nay, tiêu chí xác định EIP Trung Quốc được thực hiện theo quy định được ban hành năm 2019 của Cục Quản lý môi trường Chính Phủ (SEPA). Việc quản lý EIP ở Trung Quốc bao gồm (i) đăng ký phát triển, xây dựng EIP; (ii) phê duyệt và chứng nhận EIP và (iii) kiểm tra tiếp theo. Ở mỗi giai đoạn, KCN cần đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định mới được công nhận là EIP. Một số khu vực khác cũng thiết kế tiêu chí EIP của riêng họ, bao gồm Cảng Cape Charles, Virginia và Devens, Massachusetts (Mỹ) (Beijia Huang và cộng sự, 2019).
Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), trong tài liệu hướng dẫn xây dựng EIP, cũng đã xây dựng một khung về EIP bao gồm 4 hợp phần chính: Một là, dịch vụ quản lý KCN, giám sát, quy hoạch và thiết kế; Hai là, hiệu quả về môi trường; Ba là, hiệu quả về xã hội, Bốn là, hiệu quả về kinh tế. Các tiêu chí cho 4 hợp phần được xây dựng gồm có 2 nhóm: Những điều kiện tiên quyết thiết lập các điều kiện cơ bản dành cho các KCN bắt đầu chuyển đổi sang EIP và những yêu cầu về hiệu quả xác định các chỉ số mà EIP phải đáp ứng. Để được coi là EIP, KCN phải tuân thủ tất cả các điều kiện tiên quyết và kỳ vọng về hiệu quả (giá trị mục tiêu) do chính phủ đặt ra đối với từng quốc gia cụ thể. Cách tiếp cận này mang lại sự linh hoạt và có thể áp dụng cho các loại KCN khác nhau.
ỨNG DỤNG TRONG THỰC TIỄN VIỆT NAM
Tại Việt Nam, việc triển khai mô hình EIP cũng đã đạt được một số thành tựu bước đầu. Khởi động từ năm 2014 với dự án “Triển khai sáng kiến EIP hướng tới mô hình KCN bền vững tại Việt Nam” do UNIDO tài trợ, chương trình phát triển EIP ở Việt Nam đã nhận được sự hưởng ứng của các KCN, trong đó có 3 KCN được chọn thí điểm để chuyển đổi mô hình là KCN Ninh Khánh (tỉnh Ninh Bình), KCN Hòa Khánh (TP. Đà Nẵng) và KCN Trà Nóc 1, 2 (TP. Cần Thơ). Tháng 11/2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) phối hợp với UNIDO, Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) và Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) đã khởi động dự án “Triển khai KCN sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ Chương trình KCN sinh thái toàn cầu”, thực hiện trong 36 tháng tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai, Đà Nẵng và Hải Phòng. Dự án này được coi là giai đoạn 2 của dự án “Triển khai sáng kiến EIP hướng tới mô hình KCN bền vững tại Việt Nam” giai đoạn 2014-2019.
Các KCN được lựa chọn để triển khai thí điểm qua 2 giai đoạn bao gồm: Giai đoạn 1 (2014-2019): Gián Khẩu, Khánh Phú, Hòa Khánh, Trà Nóc 1, 2; Giai đoạn 2 (2020-2024): Hiệp Phước, Amata - Biên Hoà, Đình Vũ (Deep C), Hoà Khánh và Trà Nóc 1, 2.
Theo UNIDO và MPI (2019), đến năm 2030 sẽ có từ 40%-50% địa phương có kế hoạch chuyển đổi các KCN hiện hữu sang KCN sinh thái và 8%-10% địa phương có định hướng xây dựng KCN sinh thái mới từ bước lập quy hoạch xây dựng và định hướng ngành, nghề thu hút đầu tư. Việc quan tâm xây dựng mới EIP được thực hiện đồng thời với việc chuyển đổi KCN truyền thống sang KCN sinh thái. Có thể nói, việc phát triển các EIP của Việt Nam đang diễn ra theo chiều hướng tích cực và nhận được sự hưởng ứng của các DN cũng như từ phía các cơ quan Nhà nước.
Ở phạm vi vĩ mô, Nhà nước cũng đã có nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý và hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của EIP trong cả nước. Trong đó, có 2 văn bản nổi bật là Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý KCN và khu kinh tế và Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý KCN và khu kinh tế. Hai văn bản này đã xác lập những cơ sở pháp lý đầu tiên tạo điều kiện cho sự hình thành của mô hình EIP ở Việt Nam.
Về các tiêu chí xác định EIP, trước năm 2022, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP đã quy định 8 tiêu chí cơ bản để nhận dạng các EIP. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các tiêu chí này còn chung chung, khó đánh giá, trong đó chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện tiêu chí “dành tối thiểu 25% diện tích đất KCN cho các công trình cây xanh, giao thông, các hạ tầng dịch vụ dùng chung” khiến cho các doanh nghiệp định hướng thực hiện EIP gặp khó khăn khi triển khai.
Năm 2022, Nghị định số 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý KCN và khu kinh tế ra đời và thay thế Nghị định số 82/2018/NĐ-CP. Theo đó, nội dung về KCN sinh thái đã được định hình rõ hơn. Một trong số đó là quy định về việc cấp giấy chứng nhận sinh thái cho KCN và các DN trong KCN đáp ứng các tiêu chí. Điều này đã xác lập một cơ sở chính thức cũng như đưa ra ranh giới để phân biệt giữa các KCN theo hướng sinh thái và các KCN đã đạt tiêu chí sinh thái. Nghị định 35/2022/NĐ-CP cũng đã xây dựng một bộ tiêu chí cho các chủ thể khác nhau trong EIP, bao gồm nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN; các doanh nghiệp trong KCN và KCN. Bên cạnh đó, văn bản cũng yêu cầu các doanh nghiệp trong KCN và KCN thực hiện cơ chế báo cáo quá trình thực hiện hàng năm để đánh giá quá trình duy trì thực hiện các cam kết về EIP. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai, có thể nhận thấy những bất cập trong quy định của Nghị định này như các tiêu chí còn chung chung, lộ trình xây dựng EIP từ giai đoạn thí điểm đến chính thức cũng chưa được định hình rõ.
Ngày 24/1/2025, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT hướng dẫn xây dựng KCN sinh thái, trong đó đã cụ thể hóa các quy định tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP, đưa ra hướng dẫn rõ ràng về xây dựng EIP thông qua những nội dung như cộng sinh công nghiệp, sử dụng tài nguyên hiệu quả và sản xuất sạch hơn, đồng thời cung cấp các biểu mẫu bắt buộc để theo dõi các chỉ số môi trường, kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT vẫn tồn tại một số hạn chế đáng lưu ý, như: (i) Không nêu rõ các cam kết cụ thể về hỗ trợ kỹ thuật, tài chính hay khung chế tài trong trường hợp không đáp ứng tiến độ hoặc tiêu chí - yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả thực thi; (ii) Tính khả thi trong giám sát vẫn là vấn đề, khi Thông tư chỉ đề nghị “tham khảo ý kiến tổ chức chuyên môn hoặc quốc tế”, mà không quy định rõ vai trò hay năng lực của các bên tham gia đánh giá, dẫn đến rủi ro giám sát hình thức, thiếu chặt chẽ; (iii) Các chỉ số về cộng sinh công nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải thu thập dữ liệu định lượng (tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, tái sử dụng vật liệu…), nhưng hiện vẫn là mẫu báo cáo chung, có thể gây khó khăn trong việc áp dụng tại hiện trường do thiếu nguồn lực kỹ thuật, thống kê trong doanh nghiệp nhỏ và vừa .
Ở góc độ khoa học, góp phần cung cấp những tài liệu tham khảo cho thực tiễn định hình EIP ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Cao Luận (2015) đã giới thiệu khung về quá trình chuyển đổi các KCN truyền thống thành EIP của TP. Đà Nẵng bao gồm 5 giai đoạn tương ứng với các tiêu chí về mức độ hoàn thiện của hệ thống quản lý môi trường KCN. Tuy nhiên, hệ thống các tiêu chí này cũng chỉ mới tập trung vào các tiêu chuẩn về khía cạnh môi trường, trong khi đó, mục tiêu của EIP hướng đến đảm bảo lợi ích trên cả 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường.
Trần Duy Đông (2020) khi nghiên cứu về phát triển EIP ở Việt Nam cũng đã đưa ra sơ bộ định hướng khung chỉ tiêu EIP cho Việt Nam, với bộ chỉ số được xây dựng cho 2 nhóm, trong đó ở cấp độ KCN gồm có các tiêu chí về quản lý, kinh tế, xã hội và môi trường; ở cấp độ doanh nghiệp, các tiêu chí cũng được tổ chức theo 3 lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường. Đây cũng là một nguồn tham khảo quan trọng cho quá trình xây dựng hệ thống cơ sở pháp lý nhằm định hình EIP ở Việt Nam.
THẢO LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Thảo luận
Hiện nay, trong các văn bản pháp lý của Việt Nam, định hình EIP đã được làm rõ về mặt khái niệm và nội hàm, nhằm xác định một cách chính xác bản chất và cấu thành của các EIP. Điều này đã giúp cho các KCN có những mường tượng cơ bản về mục tiêu mà mình sẽ đi. Tuy nhiên, các bước đi cụ thể như thế nào; làm sao để đánh giá được sự thành công hay không thành công; đạt tiêu chí sinh thái hay mới chỉ đi theo định hướng sinh thái… thì vẫn cần một hệ thống quy định về khuôn khổ, phạm vi, tiêu chí đo lường hiệu quả cũng như lộ trình cụ thể để xây dựng các EIP trong từng giai đoạn khác nhau. Việc tham khảo các bộ công cụ của UNIDO hay một số quốc gia trên thế giới về lộ trình đánh giá và phát triển EIP là hết sức quan trọng và cần thiết. Quá trình vận dụng cần kết hợp một cách linh hoạt với bối cảnh của Việt Nam.
Thực tiễn phát triển EIP ở Việt Nam đang diễn ra hết sức phong phú và sôi nổi. Tỷ lệ các doanh nghiệp quan tâm đến mô hình EIP cũng đang dần được mở rộng, theo đó, “có đến 30% DN có nghe hiểu về khái niệm KCN sinh thái và 20% hiểu rõ KCN phát triển bền vững cần bảo đảm cân đối về phát triển đồng thời của 4 trụ cột ESG”. Để có thể tạo môi trường thuận lợi cho quá trình xây dựng và phát triển EIP, việc định hình EIP ở Việt Nam là một việc làm cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước đối với các EIP cũng như yêu cầu về thực tiễn xây dựng các EIP từ phía doanh nghiệp và nhà đầu tư xây dựng KCN.
Hướng nghiên cứu tiếp theo
Để hoạt động xây dựng các EIP đi vào khuôn khổ và thuận lợi, trong các nghiên cứu tiếp theo, cần quan tâm đến việc xây dựng một bộ tiêu chí đánh giá phát triển EIP phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Việc xây dựng bộ tiêu chí này có thể được triển khai trên cơ sở các cấp độ của EIP như đã được chỉ ra trong phần khái niệm và nội hàm, bao gồm hoạt động ở phạm vi doanh nghiệp, liên kết các doanh nghiệp và của KCN. Dựa vào việc mức độ hiện diện của các hoạt động nay để xếp hạng các EIP theo các nhóm: KCN định hướng EIP, EIP (được cấp giấy chứng nhận EIP). Định kỳ hàng năm, cơ quan quản lý nhà nước sẽ tiến hành kiểm tra việc chấp hành quy định của các EIP đã được cấp giấy chứng nhận để đảm bảo các EIP luôn duy trì được hiệu quả sinh thái; nếu không đáp ứng các tiêu chí thì sẽ bị thu hồi chứng nhận EIP. Về lâu dài, cần kết hợp với tiêu chí về hiệu quả của EIP để xây dựng hệ thống xếp hạng các EIP theo mức độ phát triển bền vững và mức độ hoàn thành các tiêu chí do Nhà nước đề ra dựa trên 3 trụ cột cơ bản: (i) Bền vững về kinh tế; (ii) Bền vững về xã hội; (iii) Bền vững về môi trường.
Tài liệu tham khảo:
1. Beijia Huang, Geng Yong, Juan Zhao, Teresa Domenech, Zhe Liu, Shun Fung Chiu, Will McDowall, Raimund Bleischwitz, Jingru Liu, Yang Yao (2019). Review of the development of China's Eco-industrial Park standard system, Resources, Conservation & Recycling, 140, 137-144.
2. Guillermo Valenzuela-Venega, J. Cristian Salgado, Felipe A. D ́ıaz-Alvarado (2016). Sustainability Indicators for the Assessment of Eco-Industrial Parks: classification and criteria for selection, Journal of Cleaner Production, 133, 99-116.
3. Nguyễn Cao Luận (2015). Phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Đà Nẵng, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 12, 41-43.
4. Somchint Pilouk, Thammarat Koottatep (2017). Environmental performance indicators as the key for eco-industrial parks in Thailand, Journal of Cleaner Production, 156, 614-623.
5. Trần Duy Đông (2020). Phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học viện Khoa học Xã hội;
6. Tudor, Terry, Emma Adam, and Margaret Bates (2007). Drivers and limitations for the successful development and functioning of EIPs (eco-industrial parks): A literature review. Ecological Economics, 61(2-3), 199-207.
7. UNIDO, MPI (2019). Social and ecomic requirements for Eco - Industrial Park: International Experience and Vietnam case study. https://www.unido.org/sites/default/files/files/2019-05/3-Vietnam-Review-of-international-and-Vietnamese-experiences-1.pdf.
Ngày nhận bài: 22/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/8/2025; Ngày duyệt đăng: 25/8/2025 |