ThS. Trần Thùy Dung
Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải
Email: Trandung16101994@gmail.com
Tóm tắt
Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia tiêu thụ túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần cao nhất thế giới. Việc sử dụng tràn lan loại sản phẩm này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sống và sức khỏe con người. Để hạn chế tình trạng này, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như: áp thuế bảo vệ môi trường đối với túi ni lông; khuyến khích sử dụng túi ni lông thân thiện với môi trường và hạn chế sử dụng sản phẩm nhựa dùng 1 lần; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về tác hại của túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần… Tuy nhiên, việc sử dụng các sản phẩm này ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan ngại. Từ việc phân tích thực trạng cũng như những tác hại của việc lạm dụng túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần tại Việt Nam, bài viết cho rằng cần phải có các chính sách mạnh tay hơn nữa, như áp thuế tiêu thụ đặc biệt để hạn chế sử dụng, từ đó giảm thiểu tác hại của túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần tại Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách thuế, túi ni lông, ô nhiễm môi trường, hạn chế sử dụng nhựa
Summary
Vietnam is currently among the countries with the highest consumption of plastic bags and single-use plastic products worldwide. The widespread use of these items has had severe impacts on the environment and human health. To address this issue, the government has implemented various policies, including imposing environmental protection taxes on plastic bags, promoting the use of eco-friendly alternatives, restricting single-use plastic products, and strengthening public awareness and education on their harmful effects. However, the use of such products in Vietnam remains a significant concern. By analyzing the current situation and the adverse effects of overusing plastic bags and single-use plastic items, this article argues for the implementation of stronger policy measures, such as the introduction of a special consumption tax, to limit their use and mitigate their environmental and health impacts.
Keywords: Tax policy, plastic bags, environmental pollution, plastic use reduction
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ một loại nguyên liệu góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành sản xuất, mang tới nhiều thay đổi, tiện ích trong cuộc sống của con người trong xã hội hiện đại…, nhựa, hay nói đúng hơn là rác thải nhựa đã nhanh chóng trở thành một trong những tai họa môi trường lớn nhất. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), hiện nay mỗi năm lượng rác thải nhựa trên thế giới được “bổ sung” thêm khoảng 300 triệu tấn. Nếu mô hình tiêu thụ hiện tại và thực tiễn quản lý chất thải không được cải thiện, đến năm 2050 sẽ có khoảng 12 tỷ tấn rác thải nhựa tồn lưu tại các bãi chôn lấp và môi trường tự nhiên.
“Đóng góp” lớn vào nỗi lo rác thải nhựa là sự phát triển của hoạt động sản xuất cũng như tình trạng lạm dụng túi ni lông và các sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần như chai nước, ống hút, thìa dĩa nhựa hay hộp nhựa xốp... Dù đây là các sản phẩm được sử dụng rộng rãi do đáp ứng nhu cầu chứa đựng, vận chuyển thực phẩm, hàng hóa thuận lợi, rẻ tiền và hợp vệ sinh, nhưng việc chúng bị thải bỏ chỉ sau 1 lần sử dụng đã khiến lượng rác thải nhựa gia tăng nhanh chóng. Dù có thời gian sử dụng ngắn, nhưng mỗi sản phẩm này có thể mất đến cả ngàn năm để phân hủy, gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng đối với môi trường sống và sức khỏe con người.
Việt Nam là một trong những quốc gia sử dụng, tiêu thụ lượng túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần cao nhất thế giới. Để hạn chế tình trạng này, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như: áp thuế bảo vệ môi trường đối với túi ni lông; khuyến khích sử dụng túi ni lông thân thiện với môi trường và hạn chế sử dụng sản phẩm nhựa dùng 1 lần; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về tác hại của túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần… Tuy nhiên, việc sử dụng các loại sản phẩm này ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan ngại. Từ việc phân tích rõ thực trạng cũng như những tác hại của việc lạm dụng túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần tại Việt Nam, tác giả đề xuất việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với nhóm sản phẩm này nhằm làm giảm lượng tiêu thụ, từ đó giảm các tác động có hại đến môi trường, sức khỏe của người dân, mang lại những lợi ích thiết thực cho xã hội.
TÚI NI LÔNG VÀ SẢN PHẨM NHỰA DÙNG 1 LẦN: LỢI VÀ HẠI
Túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần là gì?
Túi ni lông hay còn gọi là túi bóng, bịch ni lông hay túi nhựa, là một loại bao bì mỏng, dẻo và nhẹ, được làm từ các loại nhựa nhiệt dẻo như Polyethylene (PE), Polypropylene (PP) hoặc Polyvinyl chloride (PVC). Túi ni lông có nhiều hình dạng, màu sắc và kích thước khác nhau, đáp ứng nhu cầu sử dụng đa dạng của của các ngành sản xuất, dịch vụ cũng như người tiêu dùng. Chúng được sử dụng hết sức phổ biến trên toàn thế giới vì tính tiện dụng, có thể dùng để đóng gói, vận chuyển hoặc bảo quản hàng hóa,…
Theo khoản 14 Điều 3 Nghị định 08/2022/NĐ-CP, “sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần là các sản phẩm (trừ sản phẩm gắn kèm không thể thay thế) bao gồm khay, hộp chứa đựng thực phẩm, bát, đũa, ly, cốc, dao, thìa, dĩa, ống hút, dụng cụ ăn uống khác có thành phần nhựa được thiết kế và đưa ra thị trường với chủ đích để sử dụng 1 lần trước khi thải bỏ ra môi trường”. Như vậy, giống túi ni lông, sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần mang lại nhiều lợi ích đáng kể trong cuộc sống hàng ngày: tiện lợi và tiết kiệm thời gian, chi phí thấp, sạch sẽ, vệ sinh, đa dạng và dễ dàng tiếp cận,…
Tác hại của túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần
Mặc dù mang lại nhiều lợi ích, túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần cũng gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng đối với môi trường sống và sức khỏe con người:
Ô nhiễm môi trường
Cũng như những loại sản phẩm làm từ nhựa khác, túi ni lông và các sản phẩm nhựa dùng 1 lần rất khó phân hủy. Chúng có thể tồn tại trong môi trường hàng trăm năm; một số loại túi ni lông thậm chí không bao giờ phân hủy nếu không tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng. Khi bị chôn vùi xuống đất, chúng sẽ làm thay đổi tính chất vật lý của đất, gây xói mòn và làm mất khả năng giữ nước và chất dinh dưỡng. Khi túi ni lông và đồ nhựa bị vứt xuống ao hồ, sông suối, chúng sẽ làm tắc nghẽn cống rãnh, sinh sản vi khuẩn gây bệnh cho con người. Ngoài ra, rác thải ni lông còn tác động nặng nề đến môi trường biển, gây cái chết đối với hàng loạt sinh vật biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái biển…
Quá trình sản xuất túi ni lông và đồ nhựa dùng 1 lần cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sống. Sản xuất nhựa tiêu tốn một lượng lớn dầu mỏ của thế giới, ước tính khoảng 60-100 triệu thùng dầu mỗi năm. Điều này gây áp lực lớn lên nguồn tài nguyên dầu mỏ, làm tăng giá các sản phẩm từ dầu mỏ. Thành phần của túi nhựa chứa nhiều chất độc hại, bao gồm các chất gây ung thư và rối loạn nội tiết; những hóa chất này thường được sử dụng trong quá trình sản xuất nhựa và được thải ra môi trường dưới dạng sản phẩm phụ. Khi chúng giải phóng ra môi trường sẽ gây ô nhiễm đất, nước và không khí, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái và các loài động vật.
Ảnh hưởng tới sức khỏe con người
Sử dụng túi ni lông, sản phẩm nhựa dùng 1 lần quá nhiều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, cụ thể:
Gây ung thư: Nhiều loại túi ni lông nhuộm màu được sử dụng để đựng thực phẩm có thể chứa các kim loại nặng như chì và cadmium. Khi vào cơ thể người, chúng có nguy cơ gây ung thư.
Làm chậm phát triển não bộ: Một số nghiên cứu cho thấy túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần chứa chất BPA có thể ảnh hưởng trực tiếp đến não bộ và gây chậm phát triển, viêm gan, rối loạn nội tiết, vô sinh,…
Ảnh hưởng tới hệ miễn dịch: Các vi chất trong túi ni lông có thể ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch của trẻ em, gây rối loạn hành vi và nhận thức. Khi đốt túi ni lông, khói thải ra môi trường có mùi rất khó chịu, chứa các chất độc hại như Dioxin và Fuarn có thể gây ngộ độc, khó thở, hít nhiều có thể dẫn đến ung thư, suy giảm khả năng miễn dịch, dị tật bẩm sinh ở trẻ và rối loạn chức năng,…
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG TÚI NI LÔNG VÀ SẢN PHẨM NHỰA DÙNG 1 LẦN TẠI VIỆT NAM
Sự gia tăng đáng lo ngại
Hiện nay, túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần đã được sử dụng trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực và đời sống của người dân nhờ tính tiện dụng, bền chắc, có khả năng chống nước, chống ẩm và khả năng chịu lực cao. Vì tính tiện dụng của chúng mà hầu hết mọi người dân đều sử dụng hàng ngày. Tại Việt Nam, theo ước tính của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), mỗi năm nước ta thải ra khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa, bao gồm hơn 30.000 tỷ túi ni lông.
Tại các chợ truyền thống hay trong siêu thị, hình ảnh túi ni lông len lỏi trong từng quầy hàng, gói ghém đủ các loại thực phẩm đã trở nên quen thuộc. Mỗi lần đi chợ hoặc đi siêu thị, người dân dùng rất nhiều túi ni lông, sử dụng như một thói quen không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, có đến 80% số túi ni lông bị vứt bỏ chỉ sau 1 lần sử dụng.
Theo bà Dương Thị Phương Anh- Viện Chiến lược và Chính sách về Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam đang là 1 trong 4 quốc gia thải ra nhiều túi ni lông nhất châu Á. Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý Biển và Quần đảo thuộc Cục Quản lý Biển và Quần đảo Việt Nam cho biết, hàng năm Việt Nam thải ra 0,28-0,73 triệu tấn túi ni lông và rác thải nhựa vào đại dương, chiếm 6% tổng khối lượng rác thải nhựa thải ra biển của thế giới. Những năm gần đây, khi nền kinh tế và đời sống càng ngày càng phát triển, tình trạng sử dụng túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần không ngừng gia tăng, nhất là tại các thành phố lớn; số lượng nhựa sản xuất, sử dụng và thải ra môi trường hàng năm vẫn tăng cao. Theo thống kê của Hiệp hội Nhựa Việt Nam, nếu như năm 1990, mỗi người Việt Nam chỉ tiêu thụ 3,8kg nhựa mỗi năm, thì sau 35 năm đã lên tới 41 kg. Những con số thống kê về tình hình sử dụng túi ni lông hiện nay cho thấy lượng rác thải từ túi ni lông và đồ nhựa dùng 1 lần là rất đáng báo động.
Các chính sách hạn chế túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần
Với quan điểm nhất quán là phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường; kinh tế, xã hội và môi trường là 3 trụ cột cho sự phát triển bền vững và là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình phát triển... trong những năm qua Việt Nam đã ban hành và đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường do rác thải nhựa, nhất là sản phẩm nhựa dùng 1 lần và túi ni lông khó phân hủy.
Từ năm 2012, theo quy định của Luật thuế Bảo vệ môi trường, túi ni lông là là sản phẩm thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường. Chính phủ cũng rất tích cực, quyết tâm trong việc thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế sử dụng sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần và túi ni lông; đồng thời kêu gọi, vận động toàn dân hạn chế sử dụng các sản phẩm này... Trong đó, Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 đặt mục tiêu tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu, sản xuất và cung cấp các loại túi ni lông khó phân hủy kể từ năm 2026 tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt; Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 4/12/2019 yêu cầu nâng cao nhận thức, ứng xử và thói quen sử dụng sản phẩm nhựa dùng 1 lần, túi ni lông khó phân hủy của cộng đồng và xã hội, với mục tiêu đến năm 2030 giảm thiểu 75% rác thải nhựa trên biển và đại dương; 100% các khu, điểm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch và dịch vụ du lịch khác ven biển không sử dụng sản phẩm nhựa dùng 1 lần và túi ni lông khó phân hủy.
Tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Chính phủ cũng đã yêu cầu các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học phải thực hiện trách nhiệm tái chế, xử lý theo quy định tại Nghị định này; đồng thời đưa ra lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa bắt đầu từ năm 2026; tiến tới dừng sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng 1 lần (trừ sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam), bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) từ sau ngày 31/12/2030…
CẦN ÁP DỤNG THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT VỚI TÚI NI LÔNG VÀ SẢN PHẨM NHỰA DÙNG 1 LẦN TẠI VIỆT NAM
Mặc dù Chính phủ đã đưa ra rất nhiều biện pháp nhằm hạn chế túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần nhưng tình trạng sử dụng các sản phẩm này tại Việt Nam vẫn đáng báo động. Do vậy, việc áp thuế TTĐB với các sản phẩm trên đang trở nên ngày càng cấp thiết.
Thuế TTĐB là công cụ thuế phổ biến được áp dụng nhằm giảm mức tiêu thụ một loại hàng hóa nào đó và túi ni lông, sản phẩm nhựa dùng 1 lần cũng không phải là ngoại lệ. Theo OECD (2020), việc áp dụng thuế đối với các mặt hàng nhựa dùng một lần có thể giúp tăng giá các mặt hàng đó và do đó thúc đẩy nhu cầu tránh xa các mặt hàng đó. Các loại thuế được thiết kế tốt sẽ dẫn đến việc sử dụng các giải pháp thay thế bền hơn và/hoặc bền vững hơn.
Trên thực tế, hiện nay giá bán của các loại túi ni lông và sản phẩm nhựa dùng 1 lần là rất rẻ, thậm chí người tiêu dùng còn được cung cấp miễn phí, vì vậy họ dễ dàng tiếp cận và sử dụng tràn lan. Khi áp thuế TTĐB, giá bán của các sản phẩm này tăng lên, người dân sẽ phải bỏ nhiều tiền hơn để sở hữu chúng, nên họ có thể chuyển hướng sang các loại bao bì khác thân thiện với môi trường, từ đó góp phần thay đổi thói quen sử dụng của người tiêu dùng, giảm thiểu phát thải gây ô nhiễm. Ngoài ra, khi áp thuế TTĐB với các sản phẩm bao bì nhựa dùng 1 lần, các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy đầu tư vào các giải pháp thân thiện với môi trường, hạn chế sản xuất các sản phẩm gây ô nhiễm, thay đổi hành vi theo xu hướng quốc tế. Tuy nhiên, để áp dụng chính sách này Nhà nước cũng cần xây dựng một lộ trình phù hợp để doanh nghiệp và người dân có thời gian thích ứng.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, mặc dù Việt Nam đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách nhằm hạn chế túi ni lông và các sản phẩm nhựa dùng 1 lần, nhưng việc sử dụng các sản phẩm này ở nước ta vẫn còn khá phổ biến, tạo nên nhiều nguy cơ đối với môi trường và sức khỏe con người. Để giải quyết vấn đề này, cần phải có những giải pháp hiệu quả hơn, như áp thuế TTĐB đối với túi ni lông và các sản phẩm nhựa dùng 1 lần. Việc áp thuế TTĐB sẽ làm tăng giá bán các sản phẩm này, qua đó giảm lượng tiêu thụ, giảm các tác động có hại đến môi trường, bảo vệ tốt hơn sức khỏe của người dân; đồng thời giảm áp lực lên hệ thống xử lý chất thải và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho xã hội.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2012). Thông tư số 159/2012/TT-BTC ngày 28/9/2012 hướng dẫn Nghị định 67/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thuế bảo vệ môi trường.
2. Chính phủ (2022). Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
3. Mạnh Hùng (2022). Rác thải nhựa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Cộng sản. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/bao-ve-moi-truong/-/2018/826009/rac-thai-nhua-o-viet-nam--thuc-trang-va-giai-phap.aspx
4. OECD (2020). Taxes on single-use plastics. https://www.oecd.org/en/publications/ocean-policies_17318a16-en/taxes-on-single-use-plastics_186a058b-en.html
5. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp rác thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.
6. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 4/12/2019 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.
7. UNEP (2022). World leaders set sights on plastic pollution. https://www.unep.org/news-and-stories/story/world-leaders-set-sights-plastic-pollution
Ngày nhận bài: 05/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 17/6/2025; Ngày duyệt đăng: 18/6/2025 |