Quản lý nhà nước đối với ngành logistics theo cách tiếp cận hệ thống và tích hợp đa ngành

Logistics kết nối giữa các thành phần tĩnh (kết cấu hạ tầng, sản xuất, mạng lưới phân phối, giao dịch thương mại) và các thành phần động (vận tải, kho bãi, và các dịch vụ hỗ trợ) để thực hiện các chu trình cung cấp - sản xuất – phân phối hàng hóa. Như vậy, logistics đã có bản chất của ngành kinh tế tích hợp đa ngành với nhiều bên tham gia. Mô hình áp dụng cách tiếp cận hệ thống và tích hợp đa ngành, góp phần xây dựng hệ thống logistics bền vững, định hướng phát triển hệ thống thông tin logist...

TS. Hoàng Văn Lâm

ThS. Nguyễn Thị Khánh Ngọc (Tác giả liên hệ)

Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải

Email: lamhv@utt.edu.vn; ngocntk@utt.edu.vn

Tóm tắt

Do tính chất hoạt động đa lĩnh vực của ngành logistics, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp logistics ở Việt Nam đang gặp phải nhiều trở ngại, bất cập liên quan đến vấn đề nhất thể hóa và đồng bộ hóa hệ thống quản lý giữa các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Bài viết phân tích những vấn đề trọng yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp logistics, đề xuất mô hình quản lý theo cách tiếp cận hệ thống, tích hợp đa ngành và các yêu cầu phát triển nền tảng số, phát triển logistics xanh hướng tới môi trường kinh doanh bền vững cho ngành logistics Việt Nam.

Từ khóa: Quản lý nhà nước, ngành logistics, cách tiếp cận hệ thống, tích hợp đa ngành, Việt Nam.

Summary

Due to the cross-sectoral nature of logistics operations, state management of logistics enterprises in Vietnam faces numerous challenges and inadequacies, particularly concerning the unification and synchronization of management systems across various specialized fields. The article analyzes the key issues in state management of logistics enterprises and proposes a management model based on a systems approach, multidisciplinary integration, and the requirements for digital platform development and green logistics, aiming to promote a sustainable business environment for Vietnam's logistics sector.

Keywords: State management, logistics sector, systems approach, multidisciplinary integration, Vietnam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong hệ thống kinh tế, logistics kết nối giữa các thành phần tĩnh (kết cấu hạ tầng, sản xuất, mạng lưới phân phối, giao dịch thương mại) và các thành phần động (vận tải, kho bãi, và các dịch vụ hỗ trợ) để thực hiện các chu trình cung cấp - sản xuất – phân phối hàng hóa. Như vậy, logistics đã có bản chất của ngành kinh tế tích hợp đa ngành với nhiều bên tham gia. Về quản lý nhà nước đối với ngành logistics, nhiều chính sách mới về logistics được ban hành nhằm dần hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến nhiều lĩnh vực vận tải, cảng biển, chính sách phát triển logistics xanh, thương mại biên giới (Bộ Công Thương, 2024). Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với ngành logistics Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức trên cả phương diện tổ chức hệ thống và quản lý điều hành. Đối với doanh nghiệp logistics, sự thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng, thiếu nhất quán của các chính sách đã gây nên nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp logistics (Phương, 2024). Song hành với các chính sách đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đầu tư công, cần có cách tiếp cận mới để thiết lập một hệ thống quản lý hiệu quả và có khả năng thích ứng cao trong bối cảnh có nhiều biến động về kinh tế thế giới, khu vực và đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam. Theo đó, cách tiếp cận hệ thống và tích hợp đa ngành cung cấp luận cứ khoa học toàn diện định hướng cho quá trình hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước đối với ngành logistics phù hợp với bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Làm thế nào để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với ngành logistics Việt Nam là một phạm trù được nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau. Banomyong và cộng sự đề xuất khung đánh giá hệ thống logistics quốc gia của Việt Nam trên 4 khía cạnh chính: cơ sở hạ tầng, các bên cung cấp dịch vụ, người sử dụng dịch vụ logistics và khung pháp lý (Banomyong và cộng sự, 2020). Nghiên cứu của Bùi Thị Thu Hà và cộng sự đề xuất một số giải pháp định hướng về đẩy mạnh cải cách hành chính, điều chỉnh chính sách phù hợp với cam kết quốc tế, phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp và phát triển thị trường logistics (Bùi Thị Thu Hà, 2023). Lê Thị Nam Phương đưa ra quan điểm đánh giá về tính thiếu nhất quán, không phù hợp với thực tiễn, thiếu tuyên truyền và hiệu quả thực thi các cam kết quốc tế còn thấp của các chính sách, pháp luật (Phương, 2024). Theo quan điểm hiện đại hóa và phát triển bền vững, một số nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển logistics xanh (Tâm, 2023), và khuyến nghị các chính sách cải thiện hạ tầng công nghệ thông tin nhằm thực hiện mục tiêu chuyển đổi số (Lâm, 2021), (Lê Việt Hà, 2023); phát triển logistics xanh tích hợp thương mại điện tử đối với ngành logistics Việt Nam (Trần Đức Trọng, 2025). Theo góc độ cải tiến bộ máy quản lý nhà nước, Trần Thị Cúc đề xuất yêu cầu kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước với vai trò chủ đạo của Ủy ban 1899 (Ủy ban chỉ đạo quốc gia về cơ chế một cửa ASEAN), điều hành hoạt động logistics trên cơ sở tích hợp quản lý nhà nước về tài chính và công thương, các cơ quan thường trực của Ủy ban 1899 và Văn phòng điều phối Logistics quốc gia (Trần Thị Cúc, 2022). Như vậy, các nghiên cứu chưa đề cập đến vấn đề thiết lập khung kiến trúc hệ thống quản lý nhà nước như thế nào để thực hiện mục tiêu quản lý và thích hợp với bản chất đa ngành, mối quan hệ đa chiều của ngành logistics.

MÔ HÌNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI NGÀNH LOGISTICS THEO CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG TÍCH HỢP ĐA NGÀNH

Tích hợp các chức năng quản lý nhà nước theo cách tiếp cận đa ngành

Với bản chất đa dạng về lĩnh vực, mối quan hệ đa chiều và phức tạp giữa các bên tham gia ngành logistics, cần thiết lập cơ chế quản lý nhà nước đảm bảo thống nhất, đồng bộ và định hướng cho chiến lược phát triển bền vững ngành logistics, các chức năng quản lý nhà nước cần có sự hợp nhất quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự tham gia của các cơ quan quản lý liên quan. Các chức năng quản lý được tích hợp nhằm thực hiện các nhiệm vụ liên quan thể hiện ở Bảng 1.

Bảng 1. Tích hợp các chức năng quản lý nhà nước đa ngành về logistics

TT

Chức năng quản lý

Mục tiêu

Các nhiệm vụ

1

Xây dựng chính sách, pháp luật

Đảm bảo khung pháp lý đồng bộ, minh bạch, hỗ trợ doanh nghiệp logistics

Ban hành và sửa đổi luật, nghị định

Xây dựng tiêu chuẩn logistics quốc gia (hạ tầng, phát triển logistics xanh, chuyển đổi số)

Hài hòa hóa quy định với quốc tế

2

Điều phối liên ngành

Tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành, giảm chồng chéo chính sách

Thành lập Ủy ban Logistics Quốc gia.

Thiết lập cơ chế điều hành giữa các bộ chủ quản chuyên ngành

Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển logistics thống nhất.

3

Quy hoạch và đầu tư phát triển hạ tầng

Xây dựng hạ tầng kết nối vận tải đa phương thức, tối ưu dòng luân chuyển hàng hóa, giảm chi phí logistics

Phát triển mạng lưới các trung tâm logistics tại các tỉnh, thành phố

Phát triển đường sắt, cảng biển.

Tăng cường kết nối vận tải đa phương thức

4

Thúc đẩy chuyển đổi số

Tăng hiệu quả vận hành qua công nghệ số, giảm thời gian xử lý thủ tục hành chính, dịch vụ công

Xây dựng nền tảng số quốc gia về logistics (LIS).

Áp dụng blockchain, AI trong chuỗi cung ứng.

Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng công nghệ 4.0

5

Hỗ trợ logistics xanh

Phát triển logistics, chuỗi cung ứng xanh và tích hợp khung tiêu chuẩn ESG trong các doanh nghiệp

Ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển logistics, chuỗi cung ứng xanh

Ban hành tiêu chuẩn và hướng dẫn thực hành khung tiêu chuẩn ESG

6

Xây dựng cơ chế đầu tư, quản lý và khai thác hạ tầng

Thu hút vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư và khai thác hạ tầng

Xây dựng cơ chế PPP minh bạch.

Thu hút vốn tư nhân cho trung tâm logistics, cảng.

Tăng cường đối thoại công-tư qua Hiệp hội, tổ chức doanh nghiệp

7

Giám sát và đánh giá

Đảm bảo hiệu quả thực thi chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh

Thiết lập hệ thống chỉ báo giám sát logistics (LPIs).

Đánh giá định kỳ chính sách, hạ tầng.

Thu thập phản hồi từ doanh nghiệp và các Hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Mô hình hệ thống quản lý nhà nước đối với ngành logistics

Về phía doanh nghiệp logistics, tiến trình triển khai và mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành logistics còn nhiều hạn chế, số lượng doanh nghiệp ứng dụng ở cấp độ 3 (trực quan hóa) và cấp độ 4 (minh bạch hóa) chiếm tỷ trọng thấp dưới 10% (Bộ Công Thương, 2024). Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp logistics Việt Nam nói chung và tại các địa phương vẫn ở quy mô nhỏ, thiếu kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh quốc tế thấp; mức độ liên kết vùng thấp (Bộ Công Thương, 2024). Đây là những thách thức không nhỏ đối với quản lý nhà nước đối với ngành logistics Việt Nam. Nhằm khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả quản lý, cách tiếp cận hệ thống, tích hợp đa ngành và định hướng áp dụng tiêu chuẩn phát triển bền vững sẽ đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả trên các phương diện tính minh bạch về cấu trúc và cơ chế vận hành hợp lý.

Về cấu trúc hệ thống, trên cơ sở vận hành hệ thống nền tảng số quốc gia trong quản lý điều hành, các thành phần chính tham gia hệ thống logistics quốc gia gồm:

1. Ủy ban logistics quốc gia thực hiện chức năng điều phối các bộ ngành và khu vực tư nhân, có trách nhiệm xây dựng, ban hành chiến lược, hệ thống chính sách và giám sát tiến trình thực thi các chính sách liên quan đến từng chuyên ngành;

2. Các cơ quan quản lý cấp bộ thực hiện chức năng quản lý ngành chuyên sâu, có trách nhiệm phối hợp liên ngành trong cơ chế quản lý điều hành chung từ Ủy ban logistics quốc gia;

3. Chính quyền các địa phương đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước tại các địa phương, đảm bảo phối hợp các liên ngành chuyên sâu, liên kết vùng và khai thác hiệu quả các nguồn lực tại địa phương.

4. Đối tượng quản lý gồm các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, người sử dụng dịch vụ thuê ngoài (khách hàng), Hiệp hội nghề nghiệp và các bên liên quan.

Hình 1. Các thành phần của hệ thống quản lý nhà nước đối với ngành logistics

Quản lý nhà nước đối với ngành logistics theo cách tiếp cận hệ thống và tích hợp đa ngành
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp và đề xuất

Cơ chế quản lý hệ thống logistics quốc gia có thể thực hiện theo 5 tiến trình cốt lõi vận hành hệ thống chính sách gồm: (1) Quản lý chiến lược phát triển ngành; (2) Quản lý đầu tư kết cấu hạ tầng và công nghệ; (3) Quản lý hành chính nhà nước; (4) Quản lý môi trường kinh doanh; (5) Quản lý năng lực, hiệu quả và phát triển bền vững ngành. Các tiến trình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và phân tầng từ quản lý tổng thể hệ thống logistics quốc gia đến các phân hệ quản lý từng chuyên ngành, từng địa phương. Mỗi tiến trình vận hành theo chu trình liên tục gồm hoạch định, tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá và điều chỉnh.

Hình 2. Quản lý nhà nước đối với ngành logistics theo tiến trình

Quản lý nhà nước đối với ngành logistics theo cách tiếp cận hệ thống và tích hợp đa ngành
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp và đề xuất

Về cơ chế vận hành, giữa các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp và các bên liên quan cần đẩy mạnh cơ chế đối thoại chính sách thông qua hệ thống giám sát và nền tảng số quốc gia. Ủy ban logistics quốc gia lãnh đạo chung và điều phối hoạt động giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành; chính quyền các địa phương thực hiện các chức năng xây dựng, ban hành, chủ trì và giám sát thực hiện các chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng và công nghệ. Các doanh nghiệp logistics và hiệp hội nghề nghiệp là người thực thi chính sách, đồng thời đóng vai trò đối tác phản biện và xây dựng chính sách. Các hiệp hội nghề nghiệp logistics có chức năng cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách; các doanh nghiệp logistics vừa thực hiện chức năng kinh doanh tạo ra giá trị, vừa đóng vai trò quan trọng trong đầu tư hạ tầng và công nghệ nhằm triển khai chiến lược phát triển bền vững ngành logistics với nền tảng số và công nghệ logistics xanh.

KẾT LUẬN

Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp logistics tại Việt Nam cần khắc phục hạn chế về khung pháp lý, hạ tầng, và phối hợp liên ngành. Doanh nghiệp logistics Việt Nam hoạt động đa dạng nhưng liên kết lỏng lẻo, tiềm ẩn rủi ro do cấu trúc phức tạp và vận hành thiếu đồng bộ. Nghiên cứu này đề xuất mô hình quản lý tích hợp đa ngành, phối hợp liên ngành dưới sự quản lý và điều hành của Ủy ban logistics quốc gia. Các mục tiêu phát triển công nghệ và hạ tầng vận tải đa phương thức, nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển logistics xanh được thực hiện dựa trên các chức năng quản lý trọng tâm về xây dựng và thực thi chính sách dựa trên nền tảng số quốc gia và các công cụ giám sát. Mô hình áp dụng cách tiếp cận hệ thống và tích hợp đa ngành, góp phần xây dựng hệ thống logistics bền vững, định hướng phát triển hệ thống thông tin logistics quốc gia./.

Tài liệu tham khảo

1. Banomyong, R. T. (2020), Assessing the national logistics system of Vietnam, The Asian Journal of Shipping and Logistics, 36(1), 1–10, https://doi.org/10.1016/j.ajsl.2020.01.002.

2. Bộ Công Thương. (2024). Báo cáo Logistics Việt Nam 2024, Nxb Công thương, 36-37.

3. Bùi Thị Thu Hà, Phùng Thị Vân Kiều, & Nguyễn Thị Thanh Mai (2023). Development of Logistics Vietnam Services: Situation and Solutions, MaiInternational Journal of Multidisciplinary Research and Analysis, 6(8), 3646–3654. Retrieved from https://ijmra.in/v6i8/51.php.

4. Lê Việt Hà, Đặng Quốc Hữu (2023). The factors affecting digital transformation in Vietnam logistics enterprises, Sustainability, Electronics 2023, 12, 1825. doi:https://doi.org/10.3390.

5. Lê Thị Nam Phương (2024). Enhancing legal policies in the logistics sector in the context of international integration in Vietnam, The 7th International Conference on Business, Economics, Social Sciences, and Humanities 2024,, E-ISSN: 2830-0637.

6. Lưu Thanh Tâm (2023). Green Logistics trend for sustainable Development in Vietnam. Central European Management Journal, Vol 31 Iss.2, ISSN:2336-2693 | E-ISSN:2336-4890.

7. Nguyễn Văn Lâm (2021). Laws on Supporting Digital Transformation of Small and Medium Sized Logistics Enterprises in Vietnam, Conference: International Conference on Emerging Challenges: Business Transformation and Circular Economy (ICECH 2021).

8. Trần Đức Trọng, Nguyễn Quang Hiếu, Nguyễn Huỳnh Thái An, Lê Thanh Tâm, Phạm Thị Thanh Vân, Nguyễn Tuệ Lam (2025). Green logistics adoption in Vietnam’s e-commerce sector: Trends, challenges, and business performance. RESEARCH REVIEW International Journal of Multidisciplinary, 10(2), 225–241.

9. Trần Thị Cúc, Bùi Bá Nghiêm (2022). Vai trò của dịch vụ Logistics trong nền kinh tế và yêu cầu kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về Logistics, Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ, số 19/2022.

Ngày nhận bài: 2/06/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 15/6/2025; Ngày duyệt đăng: 16/6/2025