TS. Nguyễn Thanh Tú
Học viện Hàng không Việt Nam (VAA)
Email: tunt@vaa.edu.vn
TS. Ngô Thị Mỹ Thúy
Trường Đại học Tài chính - Marketing (UFM)
Email: ntm.thuy@ufm.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích tác động của đặc điểm hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến chất lượng lợi nhuận của các công ty. Thông qua dữ liệu bảng được thu thập từ 146 công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2023 và sử dụng phương pháp hồi quy bảng (OLS, FEM, REM, GLS), kết quả chỉ ra rằng quy mô hội đồng quản trị, tính độc lập của thành viên và mức độ tập trung sở hữu tác động cùng chiều đến chất lượng lợi nhuận. Ngược lại, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, tỉ lệ sở hữu nhà nước và kiêm nhiệm chức vụ của giám đốc điều hành có tác động ngược chiều đến chất lượng lợi nhuận. Nghiên cứu đóng góp bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ việc hoạch định chính sách nâng cao hiệu quả quản trị, đặc biệt là khuyến nghị tăng cường tính độc lập của hội đồng quản trị, tách bạch chức danh giám đốc điều hành và chủ tịch hội đồng quản trị, cải thiện vai trò giám sát của cổ đông nhà nước.
Từ khóa: Hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu, chất lượng lợi nhuận
Summary
This study analyzes the impact of board characteristics and ownership structure on earnings quality among firms. Using panel data collected from 146 non-financial listed companies in Vietnam over the period 2018–2023 and employing panel regression methods (OLS, FEM, REM, GLS), the results indicate that board size, board independence, and ownership concentration positively influence earnings quality. In contrast, firm size, financial leverage, state ownership ratio, and CEO duality negatively impact the earnings quality. The study provides empirical evidence to inform policymaking for improving corporate governance, particularly by recommending enhanced board independence, the separation of CEO and chairperson roles, and strengthening the supervisory role of state shareholders.
Keywords: Board of directors, ownership structure, earnings quality
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng lợi nhuận (CLLN) là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức khỏe tài chính của công ty, phản ánh mức độ bền vững và khả năng tạo ra dòng tiền thực của lợi nhuận được báo cáo (Bellovary và cộng sự, 2005). Tuy nhiên, trong thực tế, chỉ tiêu này thường bị xem nhẹ bởi các đối tượng sử dụng thông tin tài chính, đặc biệt là nhà đầu tư và các bên liên quan. CLLN có giá trị thông tin cao vì giúp nhận dện mức độ biến động của khoản dồn tích và dòng tiền trong nhiều kỳ kế toán (Schipper và cộng sự, 2005). Việc bỏ qua chỉ tiêu này có thể dẫn đến những sai lệch nghiêm trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty (Goncharov, 2005).
Trong cơ chế quản trị công ty hiện đại, hội đồng quản trị (HĐQT) đóng vai trò trung tâm trong việc giám sát và ngăn ngừa hành vi điều chỉnh lợi nhuận sai lệch nhằm bảo vệ lợi ích của cổ đông (Fama và Jensen, 1983). Các đặc điểm của hội đồng quản trị như quy mô, mức độ độc lập, chuyên môn tài chính, … có thể ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả giám sát và minh bạch tài chính. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng hội đồng quản trị càng độc lập thì khả năng kiểm soát hành vi quản trị lợi nhuận càng cao, qua đó nâng cao tính kỷ luật và minh bạch tài chính của công ty (Peasnell và cộng sự, 2005). Ngược lại, nếu các thành viên HĐQT bị chi phối bởi lợi ích cá nhân hoặc có mối quan hệ thân hữu với ban điều hành, nguy cơ thông đồng để thao túng lợi nhuận sẽ gia tăng.
Bên cạnh đặc điểm của HĐQT, cấu trúc sở hữu cũng là một yếu tố có tác động đáng kể đến CLLN. Việc tập trung quyền sở hữu có thể giúp gia tăng quyền kiểm soát và giảm chi phí đại diện. Tuy nhiên, nếu sở hữu quá tập trung hoặc CEO đồng thời là cổ đông kiểm soát thì điều này có thể tạo điều kiện cho hành vi bóp méo lợi nhuận nhằm phục vụ lợi ích cá nhân (Salvato và Moores, 2010). Do đó, sự phân quyền rõ ràng giữa quyền quyền sở hữu và quyền kiểm soát là yếu tố then chốt trong việc nâng cao tính minh bạch tài chính và đảm bảo chất lượng lợi nhuận.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến chất lượng lợi nhuận vẫn còn hạn chế cả về số lượng lẫn phạm vi tiếp cận. Hầu hết các công trình trước đây chủ yếu tập trung vào việc xác định hình thức và mức độ quản trị lợi nhuận (Phạm Thị Bích Vân, 2012), xây dựng mô hình đo lường (Nguyễn Trọng Nguyên, 2015), hoặc xem xét tác động của hành vi quản trị lợi nhuận đến thị trường chứng khoán (Nguyễn Công Phương và cộng sự, 2016). Trong khi đó, mối quan hệ giữa đặc điểm của hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu và chất lượng lợi nhuận, đặc biệt tại các công ty niêm yết phi tài chính vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện.
Từ đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề: “Đặc điểm hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam hay không?” Để trả lời câu hỏi này, nhóm tác giả sử dụng dữ liệu bảng từ 146 công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2018-2023, kết hợp với các mô hình hồi quy (OLS, FEM, REM, GLS) để kiểm định các mối quan hệ.
Bài nghiên cứu bao gồm các phần chính như sau: (1) Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu, (2) Phương pháp nghiên cứu, (3) Kết quả nghiên cứu, (4) Kết luận và khuyến nghị.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết đại diện
Theo lý thuyết đại diện, xung đột lợi ích giữa nhà quản trị, bên đại diện và người nắm giữ cổ phần, bên sở hữu khiến cho doanh nghiệp phải gánh chịu một khoản chi phí nhất định (Jensen và Meckling, 1976).
Dựa trên nền tảng lý thuyết này, HĐQT có thể thiết lập dựa trên những cơ chế giám sát và kiểm soát tốt hơn đối với hoạt động của công ty. Cấu trúc HĐQT có liên quan trực tiếp đến cách thức kiểm soát và giám sát doanh nghiệp, từ đó giúp CLLN hiệu quả hơn (Francis, 1991). Như vậy, trong trường hợp này thì lý thuyết đại diện hình thành mối liên hệ giữa ban giám đốc hay ban kiểm toán với CLLN. Khi HĐQT công ty bao gồm các thành viên có ít thông tin về công ty họ sẽ thấy sự giám sát chặt chẽ hơn và cải thiện CLLN (Mulili và Wong, 2011).
Lý thuyết thông tin bất cân xứng
Lý thuyết nêu lên sự bất cân xứng thông tin khi nhà quản trị công ty có nhiều thông tin về doanh nghiệp, tận dụng bất cân xứng thông tin về hiệu quả của công ty để đánh lừa nhà đầu tư, là hệ quả của các bên giao dịch trên thị trường chứng khoán có thông tin với mức độ khác nhau. Cho nên, cần công bố thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, ngoài các thông tin tài chính công ty niêm yết cần công bố những thông tin phi tài chính. Báo cáo tài chính là công cụ truyền thông cơ bản giữa công ty và các bên quan tâm khác nhau.
Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu của Alves (2014) cho thấy, tính độc lập của HĐQT có ảnh hưởng tích cực đến CLLN, đồng thời kiểm soát thêm các yếu tố như đòn bẩy tài chính, dòng tiền, quy mô và cơ hội tăng trưởng. Tuy nhiên, nghiên cứu này được thực hiện trên mẫu nhỏ (33 công ty) và trong bối cảnh một nền kinh tế phát triển, nên tính khái quát cho các thị trường mới nổi như Việt Nam còn hạn chế.
Nhiều nghiên cứu tập trung vào vấn đề kiêm nhiệm chức danh trong HĐQT, như Mulgrew & Forker (2006) và Charfeddine và cộng sự (2003), đều cho thấy việc chủ tịch HĐQT đồng thời giữ chức CEO có thể làm gia tăng hành vi quản trị lợi nhuận. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại một số nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ rõ ràng giữa tính độc lập của HĐQT và hành vi bóp méo lợi nhuận, cho thấy kết quả còn thiếu nhất quán và phụ thuộc vào đặc điểm thể chế, loại hình sở hữu và mức độ minh bạch thị trường.
Bên cạnh đó, Ball và Shivakumar (2005) chỉ ra rằng tại các công ty tư nhân, các yếu tố như quy mô, đòn bẩy hay ban kiểm toán không có nhiều ý nghĩa với chất lượng lợi nhuận - điều này gợi ý rằng đặc điểm sở hữu là một biến quan trọng cần được xem xét trong mô hình nghiên cứu. Tại Việt Nam, các nghiên cứu của Hung và cộng sự (2018) đều thống nhất rằng, tính độc lập của HĐQT làm giảm hành vi quản trị lợi nhuận, qua đó cải thiện chất lượng thông tin tài chính. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu tích hợp đồng thời nhiều đặc điểm của HĐQT và cấu trúc sở hữu trong một mô hình toàn diện, cũng như chưa có nhiều bằng chứng cập nhật trong giai đoạn gần đây.
Từ đó, có thể thấy khoảng trống nghiên cứu vẫn tồn tại ở khía cạnh tiếp cận tổng thể cả hai nhóm yếu tố - đặc điểm hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu - đặc biệt trong bối cảnh thị trường mới nổi như Việt Nam. Đây chính là cơ sở để bài nghiên cứu hiện tại được thực hiện nhằm bổ sung bằng chứng thực nghiệm phù hợp và cập nhật hơn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu
Các nghiên cứu trước đây thường đưa ra hai cách thức để đánh giá chất lượng lợi nhuận: (1) dựa vào khoản dồn tích (accruals) và (2) dựa vào giao dịch thực (real activities). Nghiên cứu vận dụng mô hình chất lượng dồn tích do Dechow và Dichev (2002) để đo lường chất lượng lợi nhuận của công ty.
Từ việc kế thừa kết quả nghiên cứu trước, bài viết đưa ra mô hình nghiên cứu như sau:
EQit = β0 + β1BODit + β2INDit + β3DUAit + β4EXPit + β5SIZEit + β6LEVit +εi
Các biến trong mô hình nghiên cứu được mô tả cụ thể ở Bảng 1.
Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng (panel data) được thu thập từ báo cáo tài chính, báo cáo quản trị công ty và các tài liệu công bố công khai của 146 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE và HNX trong giai đoạn 2018-2023. Các công ty trong lĩnh vực tài chính ngân hàng được loại trừ để đảm bảo tính đồng nhất trong cấu trúc tài sản và báo cáo tài chính.
Phương pháp phân tích dữ liệu
Dữ liệu nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm Stata 15, nhóm tác giả thực hiện thống kê mô tả để phân tích đặc điểm mẫu nghiên cứu. Tiếp theo, kiểm định đa cộng tuyến được thực hiện thông qua hệ số VIF. Mô hình hồi quy được phân tích bằng 4 phương pháp: OLS, FEM, REM, và GLS.
Bảng 1: Mô tả biến tác động đến chất lượng lợi nhuận
Tên biến |
Ký hiệu |
Đo lường |
Nguồn |
Kỳ vọng |
---|---|---|---|---|
Biến phụ thuộc |
|
|
||
Chất lượng lợi nhuận |
EQ |
Giá trị tuyệt đối của phần dư từ mô hình chất lượng dồn tích của Dechow và Dichev (2002) |
Fama & Jensen (1983); Dechow & Dichev (2002) |
|
Biến độc lập |
|
|
||
Quy mô hội đồng quản trị |
BOD |
Số thành viên hội đồng quản trị |
Mulgrew & Forker (2006); Charfeddine và cộng sự (2003) |
+ |
Tỉ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập |
IND |
Số lượng thành viên độc lập/Số thành viên hội đồng quản trị |
Guner và cộng sự (2008) |
+ |
Giám đốc điều hình kiêm nhiệm chủ tịch hội |
DUA |
Giá trị “1” (CEO kiêm vị trí chủ tịch hội đồng quản trị) và “0” (CEO không kiêm vị trí chủ tịch hội đồng quản trị) |
Salvato & Moores (2010) |
- |
Tỷ lệ của thành viên hội đồng quản trị có chuyên môn tài chính |
EXP |
Số lượng thành viên có chuyên môn về kế toán, tài chính, kinh tế hoặc quản trị/Số thành viên hội đồng quản trị |
Peasnell và cộng sự (2005) |
+ |
Tính tập trung sở hữu |
OC |
Tỉ lệ sở hữu của cổ đông lớn nhất |
Shivakumar, 2000 |
- |
Sở hữu nhà nước |
STATE |
Tỉ lẹ sở hữu của nhà nước |
Dechow (1995) |
+ |
Biến kiểm soát |
|
|
||
Quy mô công ty |
SIZE |
Ln (Tổng tài sản) |
Alves (2014) |
- |
Đòn bẩy tài chính |
LEV |
Tổng Nợ phải trả/Tổng tài sản |
Ball và Shivakumar (2005) |
- |
Nguồn: Tác giả tổng hợp
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thống kê mô tả
Đầu tiên, tác giả sẽ tiến hành phân tích thống kê mô tả các đặc trưng của các biến trong mô hình để đánh giá giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, và giá trị lớn nhất của từng biến nghiên cứu (Bảng 2).
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến trong mô hình hồi quy
|
Trị trung bình |
Độ lệch chuẩn |
Giá trị tối thiểu |
Giá trị tối đa |
EQ |
0,084 |
0,072 |
0,005 |
0,497 |
BOD |
5,610 |
1,281 |
3 |
15 |
IND |
0,286 |
0,247 |
0 |
0,914 |
DUA |
0,240 |
0,512 |
0 |
1 |
EXP |
0,642 |
0,012 |
0 |
1 |
OC |
0,304 |
0,016 |
0,015 |
0,823 |
STATE |
0,192 |
0,205 |
0 |
0,846 |
SIZE |
28,236 |
1,334 |
25,036 |
33,119 |
LEV |
0,031 |
0,032 |
-0,702 |
0,429 |
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata
Kết quả phân tích hồi quy
Bảng 3: Kết quả hồi quy các nhân tố đặc điểm của HĐQT và cấu trúc sở hữu đến CLLN
Mô hình/Biến |
OLS |
FEM |
REM |
GLS |
---|---|---|---|---|
BOD |
0,014** |
0,017* |
0,012* |
0,024*** |
IND |
0,144 |
0,141* |
0,13** |
0,033* |
DUA |
-0,015* |
-0,019 |
-0,015* |
-0,006* |
EXP |
0,012 |
0,013 |
0,015 |
0,021* |
OC |
0,041 |
-0,023 |
0,061 |
0,047** |
STATE |
0,082* |
-0,078 |
-0,043 |
-0,094** |
SIZE |
-0,034*** |
-0,103*** |
-0,091*** |
-0,062*** |
LEV |
-0,061*** |
-0,062*** |
-0,061*** |
-0,064*** |
Constant |
-0,372*** |
-0,313*** |
-0,221*** |
-0,408*** |
N |
876 |
876 |
876 |
876 |
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata
Theo kết quả hồi quy (Bảng 3), các yếu tố liên quan đến hội đồng quản trị như quy mô HĐQT (BOD) và tỷ lệ thành viên độc lập (IND) có tác động tích cực đến chất lượng lợi nhuận. Điều này cho thấy, việc mở rộng quy mô và tăng cường tính độc lập của HĐQT góp phần nâng cao khả năng giám sát và minh bạch tài chính. Ngược lại, CEO kiêm nhiệm vai trò Chủ tịch HĐQT (DUA) có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng lợi nhuận, cho thấy sự tập trung quyền lực làm gia tăng rủi ro điều chỉnh lợi nhuận.
Ngoài ra, tỷ lệ thành viên có chuyên môn tài chính (EXP) và mức độ tập trung sở hữu (OC) có xu hướng cải thiện chất lượng lợi nhuận, đặc biệt trong mô hình GLS. Tuy nhiên, sở hữu nhà nước (STATE) lại cho thấy ảnh hưởng tiêu cực, phản ánh vai trò giám sát chưa hiệu quả trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối.
Cuối cùng, các yếu tố kiểm soát như quy mô doanh nghiệp (SIZE) và đòn bẩy tài chính (LEV) đều có tác động tiêu cực rõ rệt đến chất lượng lợi nhuận. Doanh nghiệp càng lớn và sử dụng nhiều nợ vay càng có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận để đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư và chủ nợ, từ đó làm suy giảm tính trung thực của báo cáo tài chính.
Thảo luận kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy, một số yếu tố về đặc điểm của hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Cụ thể, quy mô HĐQT và tỷ lệ thành viên độc lập có tác động tích cực đến chất lượng lợi nhuận, phù hợp với kết luận của Alves (2014) và Peasnell và cộng sự (2005) khi cho rằng một HĐQT lớn và độc lập hơn sẽ cải thiện hiệu quả giám sát và hạn chế hành vi quản trị lợi nhuận. Đồng thời, kết quả này cũng củng cố lập luận của Fama và Jensen (1983) về vai trò thiết yếu của HĐQT trong kiểm soát hành vi nhà quản trị.
Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng ghi nhận một số điểm khác biệt so với các nghiên cứu trước. Cụ thể, sở hữu tập trung (OC) có tác động tích cực đến chất lượng lợi nhuận, điều này trái ngược với lo ngại từ Salvato và Moores (2010) rằng sở hữu tập trung cao có thể dẫn đến chiếm dụng quyền kiểm soát và giảm minh bạch. Kết quả này gợi ý rằng trong bối cảnh Việt Nam, cổ đông lớn có thể đóng vai trò giám sát tích cực hơn đối với ban điều hành. Ngược lại, sở hữu nhà nước (STATE) lại cho thấy tác động tiêu cực đến chất lượng lợi nhuận, phù hợp với các nghiên cứu trước khẳng định tính kém minh bạch và giám sát yếu trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối.
Một điểm mới nổi bật của nghiên cứu là việc kiểm định đồng thời nhiều yếu tố thuộc cả hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu trong cùng một mô hình định lượng, trên dữ liệu cập nhật của các công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2018-2023. Việc áp dụng đồng thời nhiều phương pháp hồi quy dữ liệu bảng (OLS, FEM, REM, GLS) giúp tăng độ tin cậy và tính khái quát hóa của kết quả, góp phần làm rõ mối quan hệ thực nghiệm vốn còn chưa thống nhất trong bối cảnh các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của đặc điểm hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến chất lượng lợi nhuận tại các công ty phi tài chính niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2018-2023. Kết quả cho thấy, quy mô và tính độc lập của HĐQT cũng như trình độ chuyên môn tài chính của thành viên HĐQT có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng lợi nhuận. Ngược lại, CEO kiêm nhiệm Chủ tịch HĐQT, tỷ lệ sở hữu nhà nước cao, quy mô doanh nghiệp lớn và đòn bẩy tài chính cao đều có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng lợi nhuận. Tính tập trung sở hữu của cổ đông lớn được ghi nhận có tác động tích cực trong bối cảnh Việt Nam.
Từ các kết quả trên, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách và khuyến nghị như sau:
- Đối với doanh nghiệp: Cần nâng cao tính độc lập trong cơ cấu HĐQT thông qua việc tăng tỷ lệ thành viên độc lập, đồng thời tách biệt chức danh giữa Chủ tịch HĐQT và CEO để đảm bảo sự kiểm soát khách quan. Ngoài ra, việc lựa chọn thành viên HĐQT nên ưu tiên yếu tố chuyên môn tài chính nhằm hỗ trợ ra quyết định hiệu quả hơn.
- Đối với cổ đông và nhà đầu tư: Cổ đông lớn nên phát huy vai trò giám sát của mình trong việc đảm bảo minh bạch tài chính, đặc biệt tại các công ty có mức độ tập trung sở hữu cao. Nhà đầu tư cần lưu ý các yếu tố cấu trúc quản trị khi ra quyết định nhằm hạn chế rủi ro từ hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
- Đối với cơ quan quản lý: Cần rà soát và hoàn thiện khung pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả giám sát ở các doanh nghiệp có vốn nhà nước, đồng thời khuyến khích thực hành quản trị tốt theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là minh bạch hóa thông tin về thành viên HĐQT và cấu trúc sở hữu.
Tài liệu tham khảo:
1. Alves, S. (2014). The effect of board independence on the earnings quality: Evidence from Portuguese listed companies. Australian Accounting, Business and Finance Journal, 8(3), 23-44. https://doi.org/10.14453/aabfj.v8i3.3
2. Ball, R., & Shivakumar, L. (2005). Earnings quality in UK private firms: Comparative loss recognition timeliness. Journal of Accounting and Economics, 39(1), 83-128. https://doi.org/10.1016/j.jacceco.2004.04.001
3. Bellovary, J., Giacomino, D., & Akers, M. (2005). Earnings quality: It’s time to measure and report. The CPA Journal, 75(12), 34–37.
4. Charfeddine, L., Riahi-Belkaoui, A., & Picur, R. D. (2003). Corporate governance and earnings management: Evidence from emerging markets. Corporate Ownership & Control, 1(1), 82-95.
5. Dechow, P. M., & Dichev, I. D. (2002). The quality of accruals and earnings: The role of accrual estimation errors. The Accounting Review, 77(s-1), 35-59. https://doi.org/10.2308/accr.2002.77.s-1.35
6. Fama, E. F., & Jensen, M. C. (1983). Agency problems and residual claims. The Journal of Law and Economics, 26(2), 327-349. https://doi.org/10.1086/467037
7. Francis, J. (1991). Discussion of “On the Usefulness of Earnings and Earnings Research: Lessons and Directions from Two Decades of Empirical Research”. Journal of Accounting Research, 29(Supplement), 183-192. https://doi.org/10.2307/2491256
8. Goncharov, I. (2005). Earnings management and the value relevance of earnings: Evidence from Germany. Deutscher Universitätsverlag.
9. Hung, D. N., Nguyen, V. C., & Le, T. T. (2018). Board independence and earnings quality: Empirical evidence from listed companies in Vietnam. Asian Economic and Financial Review, 8(2), 191-202. https://doi.org/10.18488/journal.aefr.2018.82.191.202
10. Jensen, M. C. (1986). Agency costs of free cash flow, corporate finance, and takeovers. American Economic Review, 76(2), 323-329.
11. Mulgrew, M., & Forker, J. (2006). Independent non‐executive directors and earnings management in the UK. The European Accounting Review, 15(3), 395-412. https://doi.org/10.1080/09638180500521548
12. Mulili, B. M., & Wong, P. (2011). Corporate governance practices in developing countries: The case for Kenya. International Journal of Business Administration, 2(1), 14-27. https://doi.org/10.5430/ijba.v2n1p14
13. Nguyễn Công Phương, Nguyễn Văn Dần, & Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2016). Tác động của hành vi quản trị lợi nhuận đến phản ứng của thị trường chứng khoán: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 19(Q2), 23-34.
14. Nguyễn Trọng Nguyên (2015). Tác động của quản trị công ty đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
15. Peasnell, K., Pope, P., & Young, S. (2005). Board monitoring and earnings management: Do outside directors influence abnormal accruals? Journal of Business Finance & Accounting, 32(7-8), 1311-1346. https://doi.org/10.1111/j.0306-686X.2005.00630.x
16. Phạm Thị Bích Vân (2012). Cơ chế quản trị công ty và quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra công chúng niêm yết trên HOSE. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 127(12), 58-66.
17. Salvato, C., & Moores, K. (2010). Research on accounting in family firms: Past accomplishments and future challenges. Family Business Review, 23(3), 193-215. https://doi.org/10.1177/0894486510375069
18. Schipper, K., Francis, J., & Vincent, L. (2005). The quality of earnings: Evidence from accruals and cash flows. The Accounting Review, 80(1), 313-345. https://doi.org/10.2308/accr.2005.80.1.313
Ngày nhận bài: 09/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 16/6/2025; Ngày duyệt đăng: 19/6/2025 |