Bộ nguyên tắc của Basel về thực hiện kiểm tra sức chịu đựng trong giám sát ngân hàng

Nghiên cứu thực hiện phân tích các nguyên tắc của Basel về thực hiện kiểm tra sức chịu đựng áp dụng đối với các cơ quan giám sát thông qua phân tích tại cơ quan giám sát một số quốc gia và khu vực trên thế giới.

TS. Nguyễn Thị Thu Trang

Học viện Ngân hàng

Email: trangntt@hvnh.edu.vn

Tóm tắt

Kiểm tra sức chịu đựng là một trong các công cụ phổ biến được cơ quan giám sát ngân hàng sử dụng để đánh giá mức độ bền vững và ổn định của khu vực ngân hàng. Là cơ quan thiết lập tiêu chuẩn toàn cầu trong lĩnh vực ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã ban hành bộ nguyên tắc vào năm 2018 thay cho bộ nguyên tắc được ban hành vào năm 2009. Nghiên cứu thực hiện phân tích các nguyên tắc của Basel về thực hiện kiểm tra sức chịu đựng áp dụng đối với các cơ quan giám sát thông qua phân tích tại cơ quan giám sát một số quốc gia và khu vực trên thế giới.

Từ khóa: Kiểm tra sức chịu đựng, giám sát ngân hàng, Basel

Summary

Stress testing is one of the widely used tools by banking supervisory authorities to assess the resilience and stability of the banking sector. As the global standard-setting body in banking supervision, the Basel Committee on Banking Supervision issued a new set of principles in 2018, replacing those released in 2009. This study analyzes the Basel principles for conducting stress testing applicable to supervisory authorities through a review of supervisory practices in selected countries and regions worldwide.

Keywords: Stress testing, banking supervision, Basel

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hoạt động giám sát ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng và có tác động không nhỏ tới mức độ an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Để thực hiện hoạt động giám sát ngân hàng hiệu quả, cơ quan giám sát sử dụng đa dạng các công cụ, phương pháp để thực hiện, trong đó kiểm tra sức chịu đựng (KTSCĐ) là một trong các phương pháp quan trọng được sử dụng phổ biến sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008 (Hirtle và cộng sự, 2014). KTSCĐ trong giám sát ngân hàng được hiểu là phương pháp được cơ quan giám sát sử dụng để đánh giá khả năng chịu đựng của các ngân hàng thuộc đối tượng giám sát trước những kịch bản bất lợi.

Việc thực hiện phân tích các nguyên tắc của Basel về thực hiện KTSCĐ áp dụng đối với các cơ quan giám sát thông qua phân tích tại cơ quan giám sát một số quốc gia và khu vực trên thế giới sẽ giúp mục tiêu đảm bảo an toàn vi mô hay đảm bảo an toàn vĩ mô khu vực ngân hàng hoặc cả hai.

BỘ NGUYÊN TẮC CỦA BASEL VỀ THỰC HIỆN KTSCĐ TRONG GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

Năm 2009, Ủy ban Basel ban hành bộ nguyên tắc về triển khai và giám sát KTSCĐ lành mạnh. Bộ nguyên tắc bao gồm 21 nguyên tắc chia thành 2 nhóm nguyên tắc cho ngân hàng và cho cơ quan giám sát (Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng BCBS, 2009). Nhận thấy tầm quan trọng của phương pháp KTSCĐ ngày càng được gia tăng, đặc biệt là sự phổ biến hơn của việc áp dụng phương pháp này trong hoạt động giám sát của cơ quan giám sát đã dẫn tới nhu cầu cần điều chỉnh về bộ nguyên tắc về áp dụng KTSCĐ đã được ban hành từ năm 2009. Do đó năm 2018, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng BCBS đã ban hành bộ nguyên tắc về KTSCĐ mới thay thế cho bộ nguyên tắc về KTSCĐ được ban hành năm 2009. Bộ nguyên tắc về KTSCĐ năm 2018 bao gồm 9 điều, ít hơn so với 21 điều của bộ nguyên tắc cũ, tuy nhiên không có nghĩa là mức độ quan trọng của các nguyên tắc về KTSCĐ giảm đi, mà ngược lại, điều này phản ánh mức độ tổng hợp, bao quát cao hơn của các nguyên tắc. Bên cạnh đó, do KTSCĐ được sử dụng trong giám sát ngày càng nhiều nên tất cả các nguyên tắc trong bộ nguyên tắc mới đều có thể được áp dụng cho các cơ quan giám sát cũng như các ngân hàng, chứ không được chia ra thành nhóm nguyên tắc cho ngân hàng và nhóm nguyên tắc cho cơ quan giám sát như bộ nguyên tắc năm 2009 (Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng BCBS, 2018).

Bộ Nguyên tắc của Basel về thực hiện KTSCĐ được phân tích cụ thể trong hoạt động giám sát ngân hàng như sau:

Nguyên tắc 1: Khung thực hiện KTSCĐ cần được xác định mục tiêu rõ ràng và được thông qua một cách chính thức

Khung thực hiện KTSCĐ cần được thiết kế sau cho đáp ứng mục đích rõ ràng và cụ thể, và mục đích này cần được văn bản hóa và được các cấp có thẩm quyền chấp nhận và phê duyệt. Dựa trên mục tiêu được thiết lập, các nội dung, yêu cầu và kì vọng của khung thực hiện KTSCĐ được thiết kê tương ứng để đạt được mục tiêu. Với việc thiết lập mục tiêu rõ ràng, những người tham gia vào quá trình vận hành thực hiện KTSCĐ sẽ hiểu rõ hơn về vai trò và trách nhiệm của mình.

Đối với cơ quan giám sát, mục tiêu thực hiện KTSCĐ có thể được thực hiện nhằm đánh giá mức độ đủ vốn và thanh khoản của ngân hàng được giám sát; ăng cường năng lực quản lý rủi ro và thực hiện KTSCĐ tại các ngân hàng; hỗ trợ các hoạt động giám sát khác (như thanh tra tại chỗ, phân tích chuyên sâu khác; cung cấp đánh giá mang tính định lượng về hồ sơ rủi ro của ngân hàng ở cấp độ ngân hàng riêng lẻ và cấp độ tổng hợp cả hệ thống hoặc góp phần gia tăng niềm tin của thị trường và tăng cường kỷ luật thị trường. KTSCĐ trong giám sát ngân hàng Châu Âu đã đã được EBA quy định về mặt pháp lý cụ thể trong Điều 100 của CRD IV (Capital requirements directive IV- Chỉ thị yêu cầu về vốn) về mục đích của KTSCĐ trong giám sát, mô tả về tổ chức, nguồn lực, phương pháp, cách thức sử dụng kết quả khi đánh giá vốn và thanh khoản theo SREP (EBA, 2014). Tại Mỹ, FeD (2014, 2024) trong quy định của Luật cải cách phố Wall Dodd-Frank và Luật bảo vệ người tiêu dùng đã yêu cầu cơ quan giám sát ngân hàng cần thực hiện KTSCĐ theo các kịch bản do cơ quan giám sát công bố.

Nguyên tắc 2: Khung KTSCĐ cần phải có một cấu trúc quản trị hiệu quả

Khung KTSCĐ cần phải có một cấu trúc quản trị hiệu quả được xác định rõ ràng, toàn diện và thể hiện bằng văn bản. Trong đó nêu rõ vai trò và trách nhiệm của các bộ phận nội bộ, bộ phận liên quan trong tổ chức cũng như cách thức và tần suất phối hợp, tryền thông.

KTSCĐ trong giám sát thường cần sự tham gia của nhiều bộ phận khác nhau trong cơ quan, do đó cấu trúc quản trị hiệu quả của KTSCĐ trong giám sát cần chỉ rõ việc kết hợp giữa chức năng an toàn vi mô và an toàn vĩ mô (ví dụ chỉ rõ bộ phận chịu trách nhiệm tạo kịch bản, chia sẻ dữ liệu, đánh giá mô hình, sử dụng kết quả KTSCĐ)

Với KTSCĐ trong giám sát nhưng do ngân hàng thực hiện, cấu trúc quản trị hiệu quả của KTSCĐ cũng yêu cầu ngân hàng có văn bản cụ thể về vai trò và trách nhiệm của các bộ phận, cá nhân khi làm việc với cơ quan giám sát, cũng như trách nhiệm giải trình về các cấu phần được thực hiện bởi ngân hàng như chất lượng dữ liệu, lựa chọn mô hình,.

Tại Pháp, hoạt động KTSCĐ được vận hành trước tiên bởi một bộ phận trực thuộc cơ quan giám sát, bao gồm một nhóm các thành viên theo chiều ngang (horizontal units) hoạt động nhằm đánh giá rủi ro an toàn vĩ mô. Ngoài ra nhóm này còn hỗ trợ các nội dung liên quan đến ổn định vi mô và có mối quan hệ chặt chẽ với bộ phận ổn định tài chính của ngân hàng trung ương Pháp. Tại Đức, hoạt động KTSCĐ cũng được vận hành bởi các nhóm chuyên trách gồm các thành viên theo chiều ngang (horizontal units) tại ngân hàng trung ương Đức và Ủy ban giám sát tài chính Đức, nhóm này trực thuộc bộ phận an toàn vi mô (BCBS, 2017). Tại Châu Âu, KTSCĐ khu vực Châu Âu do ECB vận hành và công bố khung phối hợp nội bộ của các bên liên quan khi thực hiện KTSCĐ: bao gồm các nhóm dến từ cơ quan giám sát ngân hàng của các quốc gia thành viên, cơ quan giám sát ngân hàng ECB (bộ phận an toàn vi mô của ECB), bộ phận chức năng an toàn vĩ mô và ổn định tài chính của ECB, các bộ phận chức năng theo chiều dọc đế từ các cơ quan quốc gia, bộ phận IT và bộ phận thống kê (EBA, 2014, 2024).

Nguyên tắc 3: KTSCĐ nên được sử dụng như một công cụ để quản lý và ra quyết định

Cơ quan giám sát cần đảm bảo thực hiện KTSCĐ được đánh giá và tích hợp một cách hợp lý vào chương trình giám sát và/hoặc chương trình ổn định tài chính và được sử dụng kết hợp vùng với các phân tích và công cụ chính sách khác.

Cơ quan giám sát có thể sử dụng kết quả thực hiện KTSCĐ là một yếu tố đầu vào của quy trình giám sát. Ví dụ các kết quả định lượng và định tính của KTSCĐ có thể giúp xác định rủi ro và mức độ tổn thương mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. đánh giá mức độ đủ vốn và thanh khoản của ngân hàng, và có thể nếu đủ thông tin sẽ tiến hàng rà soát lại các sắp xếp về quản lý rủi ro và quản trị nội bộ của ngân hàng. Khi cơ quan giám sát sử dụng KTSCĐ để đánh giá mức độ đủ vốn và thanh khoản, tổ chức có thể xem xét đưa ra các phản ứng giám sát phù hợp khi phát hiện ra các thiếu sót, hoặc yêu cầu/khuyến nghị ngân hàng gia tăng vốn phụ thuộc vào cách thức giám sát của tổ chức. Khi các ngân hàng đề xuất các hành động quản trị sau khi nhận được kết quả KTSCĐ cơ quan cần phải đánh giá lại xem các hành động dự kiến đó có phù hợp với kế hoạch chiến lược của ngân hàng hay không. Bên cạnh đó, cơ quan giám sát có thể sử dụng kết quả KTSCĐ cho các mục tiêu an toàn vĩ mô như: (i) xác định và đánh giá rủi ro, mức độ tổn thương ở cấp độ hệ thống; (ii) lượng hóa nhu cầu vốn cần thiết của hệ thống trong giai đoạn khủng hoảng; (iii) đưa ra các hiệu chỉnh về công cụ và chính sách an toàn vĩ mô.

Hình 1: Mục tiêu thực hiện KTSCĐ trong giám sát ngân hàng

Đơn vị: % cơ quan giám sát đánh giá

Bộ nguyên tắc của Basel về thực hiện kiểm tra sức chịu đựng trong giám sát ngân hàng
Nguồn: BCBS (2017)

Hình 1 cho thấy, theo khảo sát của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, mục tiêu được các cơ quan giám sát hướng tới nhiều nhất khi thực hiện KTSCĐ của các ngân hàng là rà soát và xác nhận về các quy trình nội bộ đánh giá mức độ đủ vốn (ICAAP) và đủ thanh khoản (ILAAP) của ngân hàng, chiếm 68% cơ quan giám sát được khảo sát đánh giá (BCBS, 2018). Nhóm mục phổ biến tiếp tiêu tiếp theo mà các cơ quan giám sát hướng tới là thiết lập các yêu cầu về vốn, kế hoạch vốn, kế hoạch kinh doanh, đưa ra các hạn chế về vốn và cổ tức cho ngân hàng và hiệu chỉnh chính sách an toàn vĩ mô (BCBS, 2018).

Nguyên tắc 4: Khung KTSCĐ cần bao gồm các rủi ro trọng yếu và liên quan và đảm bảo đủ nghiêm trọng và căng thẳng

Khi đưa ra các kịch bản căng thẳng, cơ quan giám sát cần phải tính đến đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng (như hồ sơ rủi ro, mô hình kinh doanh) và/hoặc đặc điểm cụ thể của khu vực ngân hàng trên phương diện tổng thể. Nếu có thể, tổ chức có thể tính toán tới các rủi ro mới gia tăng nếu rủi ro này liên quan đến mục tiêu của cuộc KTSCĐ.

Cơ quan giám sát cần đánh giá về các kịch bản thông thường áp dụng cho cả hệ thống ngân hàng, hay có cần một vài kịch bản khác cho một vài khu vực cụ thể trong hệ thống ngân hàng thì phù hợp hơn để tiến hành KTSCĐ trong giám sát.

Hình 2: Các rủi ro được thực hiện KTSCĐ tại các cơ quan giám sát

Bộ nguyên tắc của Basel về thực hiện kiểm tra sức chịu đựng trong giám sát ngân hàng
Nguồn: BCBS (2017)

Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng BCBS (2017) khi thực hiện khảo sát tại 31 cơ quan giám sát trên thế giới về KTSCĐ trong giám sát ngân hàng thì nhận thấy rủi ro tín dụng là rủi ro được thực hiện nhiều nhất so với các rủi ro khác, phần lớn cơ quan giám sát các quốc gia được khảo sát (97%) thực hiện KTSCĐ rủi ro tín dụng trong giám sát ngân hàng. Trong khi đó tỷ lệ thực hiện KTSCĐ các rủi ro còn lại thì ít hơn, bao gồm rủi ro thị trường (90%), sau đó đến rủi ro thanh khoản (59%). Ngoài ra, các cơ quan giám sát trong khảo sát cũng thực hiện KTSCĐ đánh giá các rủi ro khác, như: rủi ro lãi suất, rủi ro tập trung, rủi ro quốc gia, rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng đối tác và rủi ro kinh doanh (Hình 2).

Nguyên tắc 5: Nguồn lực và cấu trúc của tổ chức cần phải đảm bảo đủ để đáp ứng mục tiêu của khung KTSCĐ

Khung KTSCĐ cần phải có cấu trúc tổ chức đủ để đáp ứng mục tiêu đã được thiết lập. Quy trình quản trị cần phải đảm bảo đủ nguồn lực cho KTSCĐ bao gồm đảm bảo nguồn lực đủ kĩ năng và điều kiện để vận hành khung KTSCĐ. Các quyết định về nguồn lực cần phải xem xét tới thực tế vân hành KTSCĐ ngày càng phức tạp và tinh vi hơn, nên cần nhiều hơn về nhân sự chuyên môn, hệ thống và hạ tầng công nghệ thông tin.

Quy trình cần đảm bảo nguồn lực có đủ kĩ năng và điều kiện bao gồm kĩ năng của nhân sự nội bộ, chuyển giao tri thức cho nhân sự bên ngoài cũng như là thuê chuyên gia có các kĩ năng về KTSCĐ. Nhóm kĩ năng nào cần bao gồm cả chuyên môn về rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, yêu cầu về vốn, kế toán tài chính, mô hình hóa và quản trị dự án.

Đặc biệt với KTSCĐ trong giám sát, dù là theo phương pháp tiếp cận bottom-up hay top-down cũng cần các nguồn lực chuyên sâu như nhân sự chuyên gia, hệ thống và hạ tầng công nghệ thông tin. Cơ quan giám sát đảm bảo đủ nguồn lực và cấu trúc của tổ chức phù hợp với mức độ phức tạp của cuộc KTSCĐ. Cơ quan giám sát cần xem xét các nguồn lực cần thiết để tương tác với các ngân hàng tham gia KTSCĐ, các nguồn lực lên qan đến quy trình hay cơ sở hạ tầng để xử lý các câu hỏi đến từ ngân hàng, tương tác với ngân hàng nhằm kiểm tra chất lượng của dữ liệu, đồng thời cung cấp phản hồi cho các ngân hàng về kết quả của KTSCĐ.

Kinh nghiệm thực hiện KTSCĐ tại cơ quan giám sat các quốc gia trên thế giới cho thấy số lượng nhân sự phụ thuộc vào quy mô của cuộc KTSCĐ. BCBS (2017) cho thấy, có 3/42 ngân hàng trung ương/cơ quan giám sát sử dụng trên 50 nhân sự toàn thời gian chỉ để cho vận hành KTSCĐ. Tỷ trọng nhân sự lớn nhất là các chuyên gia rủi ro và chuyên gia về mô hình, những người có kỹ năng chuyên môn cao và thường khó tìm vì thị trường đang thiếu hut. Với những cuộc KTSCĐ siêu quốc gia như tại Châu Âu, lượng nhân sự yêu cầu còn nhiều hơn với cần sự kết hợp với các nhân viên giám sát đại diện các quốc gia, do đó con số nhân sự toàn thời gian yêu cầu lên tới 250 người trực tiếp làm việc tại cuộc KTSCĐ khu vực Châu Âu (EBA, 2014).

Nguyên tắc 6: KTSCĐ cần phải được hỗ trợ bởi hệ thống dữ liệu phù hợp và đầy đủ và hệ thống IT đủ mạnh.

Nhằm đảo bảo rủi ro được xác định hợp lý và kết quả KTSCĐ đáng tin cậy thì dữ liệu sử dụng cho KTSCĐ cần phù hợp và đầy đủ, đảm bảo mức độ có sẵn của dữ liệu và đảm bảo tính kịp thời. Cơ quan giám sát cần có hệ thống dữ liệu đủ mạnh có khả năng chiết xuất, xử lý và báo cáo thông tin sử dụng cho KTSCĐ, đảm bảo nguồn thông tin đầy đủ và có chất lượng để thực hiện KTSCĐ. Khi thiếu thông tin trọng yếu nào thì cần có quy trình để xử lý và thu thập nhanh chóng.

Cơ quan giám sát trong phạm vi có thể nên tận dụng nguồn dữ liệu do ngân hàng cung cấp, ví dụ như thông qua báo cáo giám sát thường xuyên của ngân hàng. Cơ quan giám sát cần đảm bảo về tính nhất quán của nguồn thông tin, nhằm đảm bảo kết quả của KTSCĐ có thể tổng hợp được, cũng như có thể tổng hợp được kết quả của nhiều cuộc KTSCĐ khác nhau. Cơ quan giám sát cần rà soát và khuyến khích các ngân hàng cải thiện chất lượng thông tin của ngân hàng và khả năng tổng hợp dữ liệu và rủi o như là một cấu phần của hoạt động giám sát. Tại Châu Âu, KTSCĐ khu vực Châu Âu, bên cạnh sự tham gia của các bộ phận khác thì yêu cầu cần có bộ phận riêng liên quan đến IT và thống kê nhằm đảm bảo sự chính xác và kịp thời của dữ liệu dược sử dụng (EAB, 2024). KTSCĐ trong giám sát ngân hàng tại Mỹ cũng công bố mẫu thu thập số liệu chính thức được sử dụng để thu thập các số liệu cần có (Federal Reserve System, 2024).

Nguyên tắc 7: Mô hình và phương pháp được sử dụng để đánh giá tác động của các kịch bản và độ nhạy cần phải đáp ứng được mục tiêu của KTSCĐ

Mô hình và phương pháp được sử dụng trong KTSCĐ cần đáp ứng được mục tiêu của KTSCĐ. Cụ thể bao gồm các nội dung về: (i) Mức độ bao phủ, phân khúc và mức độ chi tiết của dữ liệu; (ii) Loại rủi ro thực hiện KTSCĐ; (iii) Mức độ phức tạp của mô hình phụ thộc vào mục tiêu của KTSCĐ cũng như phụ thuộc vào mức độ phức tạp của danh mục và hoạt động của ngân hàng; (iv) Mô hình và phương pháp được sử dụng cho KTSCĐ cần phải được đánh giá và lưu trữ bằng văn bản. Nội dung hướng dẫn cho KTSCĐ toàn khu vực Châu Âu bao gồm phương pháp, mẫu văn bản, kịch bản cho các quốc gia thành viên (EBA, 2024). Tương tự như vậy tại Mỹ, Ngân hàng Trung ương Mỹ (FeD) công bố hệ thống văn bản cho mỗi cuộc KTSCĐ bao gồm kịch bản, phương pháp được sử dụng trong KTSCĐ để giám sát (Federal Reserve System, 2024).

Cơ quan giám sát khi sử dụng KTSCĐ chi mục tiêu an toàn vi mô thì cần rà soát và đánh giá kết quả đầu ra về mô hình của ngân hàng, ví dụ thông qua đánh giá lại (backtesting) hoặc thông qua điểm chuẩn ngang hàng (peer benchmarking). Cơ quan giám sát có thể sử dụng các chỉ tiêu đánh giá của mình và thông qua quy trình giám sát yêu cầu ngân hàng cải thiện về mô hình và quy trình quản trị mô hình nếu cần thiết. Là một cấu phần của quy trình đánh giá, cơ quan giám sát có thể phát triển mô hình của mình nhằm mục đích thiết lập các tiêu chuẩn và để trao đổi với ngân hàng khi tiến hành giám sát ngân hàng.

Nguyên tắc 8: Mô hình KTSCĐ, kết quả và khung KTSCĐ cần được đánh giá và rà soát thường xuyên.

Cơ quan giám sát cần phải thường xuyên rà soát và đánh giá lại các bước thực hiện trong quy trình KTSCĐ. Đây là hoạt động cần thiết nhằm đảm bảo và cải thiện mức độ đáng tin cậy của kết quả KTSCĐ, giúp hiểu hơn về những hạn chế của quy trình, xác định các nội dung có thể được cải thiện đồng thời đảm bảo kết quả KTSCĐ được sử dụng phù hợp với mục tiêu ban đầu của khung KTSCĐ. Việc rà soát tất cả các khía cạnh, nội dung khác nhau của khung KTSCĐ cần được thực hiện thường xuyên đảm bảo khung KTSCĐ được duy trì và cập nhật thường xuyên. Khi cơ quan giám sát sử dụng kết quả KTSCĐ, cần phải đánh giá lại các giả định và mô hình, hiểu về các hạn chế của quá trình KTSCĐ sẽ giúp việc sử dụng kết quả KTSCĐ trở nên phù hợp hơn.

Cơ quan giám sát cũng cần thường xuyên tiến hành rà soát đánh giá khung KTSCĐ nội bộ của ngân hàng. Cơ quan giám sát nên đánh giá kết quả KTSCĐ như là một cấu phần của quy trình đánh giá đủ vốn nội bộ cũng như quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Cụ thể cơ quan giám sát cần đánh giá xem liệu khung KTSCĐ của ngân hàng đã bao gồm những rủi ro trọng yếu cần được thực hiện, xem xét kết quả của KTSCĐ như là một cấu phần khi đánh giá mức độ đủ vốn và thanh khoản của ngân hàng.

Cơ quan giám sát cũng cần rà soát lại các khía cạnh của KTSCĐ được thực hiện bởi ngân hàng, đánh giá về KTSCĐ có được quản lý phù hợp và đạt được mục tiêu hay không. Cơ quan giám sát có thể yêu cầu ngân hàng xử lý các thiếu sót sau khi tiến hành rà soát và đánh giá khung KTSCĐ của ngân hàng, đánh giá sự phù hợp của kết quả KTSCĐ với các quyết định được ngân hàng đưa ra.

Nguyên tắc 9: Hoạt động KTSCĐ và kết quả KTSCĐ cần được trao đổi giữa các bộ phận bên trong và giữa các cơ quan có thẩn quyền.

Công bố kết quả KTSCĐ có thể giúp gia tăng kỷ luật thị trường và gia tăng niềm tin của công chúng vào sự ổn định của khu vực ngân hàng nói chung và các ngân hàng tham gia KTSCĐ nói riêng. Khi công bố ra công chúng, cơ quan giám sát cần xem xét cách thức đưa thông tin nhằm đảm bảo các chủ thể trên thị trường hiểu về các thông tin được công bố, bao gồm cả các giả định và giới hạn khi thực hiện KTSCĐ. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro cho các chủ thể tham gia thị trường, ngăn chặn tình trạng đưa ra các kết luận thiếu căn cứ về mức độ bền vững của ngân hàng, đặc biệt khi có khác biệt về kết quả KTSCĐ cũng như các kết quả không được tích cực về các ngân hàng.

Cơ quan giám sát nên đẩy mạnh tính minh bạch của quy trình KTSCĐ và kết quả KTSCĐ đồng thời cần thiết lập quy trình để truyền thông, tương tác và phối hợp các hoạt động trong khung KTSCĐ với các cơ quan có chức năng khác. Bên cạnh đó, đối thoại giữa các cơ quan chức năng khác cũng như trong nội bộ ngành ngân hàng sẽ giúp có cái nhìn sâu sắc hơn về mức độ ổn định của ngành, cũng như giúp thực hiện KTSCĐ và cả hiện chất lượng cũng như kết quả KTSCĐ cuối cùng. Đối thoại, truyền thông giữa cơ quan giám sát các quốc gia về kết quả KTSCĐ, cách thức thiết lập kịch bản, cách thức vận hành KTSCĐ cũng giúp gia tăng hiệu quả của KTSCĐ trong giám sát. Thực hiện KTSCĐ tại Châu Âu được tổ chức các buổi trao đổi, chia sẻ cùng với các cơ quan có thẩm quyền khác và các ngân hàng nhằm tư vấn và giao tiếp, truyền thông tốt hơn với các ngân hàng tham gia (EBA, 2024). Tại Mỹ, FeD thu thập dữ liệu chính thức để cho công chúng đánh giá và nhận xét, đồng thời để một khoảng thời gian nhất định trước khi yêu cầu ngân hàng và các tổ chức nộp kết quả, đồng thời cùng lúc công bố chi tiết về bất kỳ sự thay đổi trọng yếu nào nào trong mô hình giám sát (FeD, 2024).

KẾT LUẬN

Nghiên cứu tiến hành phân tích bộ nguyên tắc của Basel về KTSCĐ ngân hàng, trong đó làm rõ các nội dung mà cơ quan giám sát ngân hàng các quốc gia cần thực hiện và phân tích với một số cơ quan giám sát trên thế giới. Cụ thể bộ nguyên tắc yêu cầu cơ quan giám sát khi thực hiện KTSCĐ cần đảm bảo khung thực hiện KTSCĐ cần được xác định mục tiêu rõ ràng và được thông qua một cách chính thức, có cấu trúc quản trị hiệu quả, được sử dụng là một công cụ để ra quyết định, cần bao gồm các rui rro trọng yếu của ngân hàng cũng như đảm bảo đủ nghiêm trọng và căng thẳng. Bên cạnh đó, cơ quan giám sát cần đảm bảo đủ nguồn lực và cấu trúc để thực hiện KTSCĐ, được hỗ trợ bới hệ thống dữ liệu và IT đủ mạnh, đảm bảo yêu cầu về mô hình và phương pháp cũng như mô hình cần được rà soát và đánh giá thường xuyên. Ngoài ra, để đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện KTSCĐ ngân hàng, cơ quan giám sát cần tiến hành trao đổi giữa các bộ phân bên trong và với các cơ quan có thẩm quyền khác./.

Tài liệu tham khảo

1. BCBS (1997). Core principles for effective banking supervision.

2. BCBS (2009). Principles for sound stress testing practices and supervision. ISBN web: 92-9197-784-5.

3. BCBS (2012). Core Principles for Effective Banking Supervision, ISBN 92-9197-146-4

4. BCBS (2015). Making supervisory stress tests more macroprudential: Considering liquidity and solvency interactions and systemic risk. Working Paper ISSN 1561-8854.

5. BCBS (2017). Supervisory and bank stress testing: range of practices. ISBN 978-92-9259-126-7 (online).

6. BCBS (2018). Stress testing principles. ISBN 978-92-9259-207-3.

7. Cihák, M. (2007). Stress testing – A review of key concepts. CNB Interntional research and policy notes.

8. EBA (2014). Methodological note EU-wide stress test 2014, p. 70.

9. EBA (2024). 2025 EU-Wide Stress test Methodological note.

10. Eisenbach, Thomas, Andrew Haughwout, Beverly Hirtle, Anna Kovner. David Lucca and Matthew Plosser (2017). Supervising Large, Complex Financial Institutions: What Do Supervisors Do?. Federal Reserve Bank of New York, Economic Policy Review, 23(1), 57-77.

11. Federal Reserve System (2014). Dodd-Frank Act Stress Test 2014: Supervisory Stress Test Methodology and Results (Washington: Board of Governors, March).

12. Federal Reserve System (2024). Dodd-Frank Act Stress Test 2024, retrieved from https://www.federalreserve.gov/supervisionreg/dfa-stress-tests-2024.htm.

13. Hirtle, Beverly and Lehnert, Andreas, Supervisory Stress Tests (2014). FRB of New York Staff Report No. 696. Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=2521612 or http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2521612.

14. IMF (International Monetary Fund) (2012). Macrofinancial Stress Testing-Principles and Practices, Policy paper .

15. Masciandaro, Donato and Marc Quintyn. (2016). The Governance of Financial Supervision: Recent Developments. Journal of Economic Surveys, 30(5), 982-1006.

16. Mishkin, Frederic S. (2001). Prudential Supervision: Why Is It Important and What Are the Issue. In Prudential Supervision: What Works and What Doesn’t. University of Chicago Press.

Ngày nhận bài: 28/4/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 12/6/2025; Ngày duyệt đăng: 19/6/2025