Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi số của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa ở TP. Hải Phòng

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển và cạnh tranh khốc liệt, chuyển đổ số đã trở thành yếu tố then chốt quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa

Vũ Đăng Khoa

KUTO Japan., JSC

Tóm tắt

Bài viết sử dụng phương pháp định lượng để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định chuyển đổi số của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa ở TP. Hải Phòng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nhân tố: Nền tảng công nghệ, Tài chính, Hệ thống tổ chức của doanh nghiệp, Kiến thức chuyển đổi số, Kỳ vọng hiệu quả và Chính sách quản lý, hỗ trợ của Nhà nước ảnh hưởng tới quyết định Chuyển đổi số của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa ở TP. Hải Phòng. Từ đó, nghiên cứu đưa ra một số hàm ý nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số tại các doanh nghiệp này.

Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, quyết định chuyển đổi số, doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa, TP. Hải Phòng

Summary

The study employs a quantitative approach to analyze the factors influencing digital transformation decisions among small and medium-sized private enterprises (SMEs) in Hai Phong City, Viet Nam. The findings reveal that several key factors, namely technological infrastructure, financial capacity, organizational structure, digital transformation knowledge, performance expectations, and government regulatory and support policies, significantly affect SMEs' decisions to adopt digital transformation. Based on these results, the study proposes policy recommendations to accelerate the digital transformation process within the enterprises.

Keywords: Influencing factors, digital transformation decision, small and medium-sized private enterprises, Hai Phong City

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển và cạnh tranh khốc liệt, chuyển đổi số (CĐS) đã trở thành yếu tố then chốt quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa (DNTNNVV). CĐS là một trong những điều kiện tiên quyết giúp DNTNNVV ứng phó với các thách thức mới, phục hồi, mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao lợi thế cạnh tranh nhằm tham gia bền vững vào chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, việc thực hiện CĐS nhất là đối với DNTNNNV là không đơn giản, bởi nhiều yếu tố tác động đến quá trình này.

Hiện nay, tại Hải Phòng có 37.000 doanh nghiệp hoạt động với xấp xỉ 97% là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo xu thế, việc chuyển từ mô hình quản lý sản xuất kinh doanh truyền thống sang dựa trên nền tảng số đang diễn ra khá nhanh và cấp thiết nhưng phần lớn DNNVV chưa theo kịp. Ngày 26/10/2021, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU xác định xác định CĐS vừa là mục tiêu, vừa là cơ hội phát triển Thành phố. Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định CĐS của các DNTNNVV sẽ giúp lãnh đạo chính quyền Thành phố xác định các phương thức hỗ trợ phù hợp để thúc đẩy các doanh nghiệp này thay đổi nhận thức, tìm giải pháp khả thi, dễ áp dụng để có thể CĐS thành công.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu

Chính sách quản lý và hỗ trợ của Nhà nước: Các DNTNNVV khá yếu thế về quy mô, năng lực quản lý và sản xuất lại càng chịu áp lực đổi mới để có thể tồn tại trên thị trường. Chính vì vậy, ảnh hưởng của các chính sách quản lý, hỗ trợ từ chính phủ hiện thời là một yếu tố có tác động thúc đẩy doanh nghiệp nói chung, DNTNNVV nói riêng chấp nhận thực hiện CĐS (Zhu và cộng sự, 2023). Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:

H1: Các chính sách quản lý và hỗ trợ từ chính phủ sẽ thúc đẩy DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS.

Kỳ vọng hiệu quả: Các DNTNNVV cũng đặt ra những kỳ vọng khi quyết định áp dụng CĐS vào mô hình sản xuất, kinh doanh của mình. Các kỳ vọng về lợi ích mà CĐS mang lại như giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao trong sử dụng nguồn lực hay nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường là động lực thúc đẩy DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS (Kutnjak và cộng sự, 2019). Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:

H2: Kỳ vọng hiệu quả có ảnh hưởng thúc đẩy tích cực DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS.

Kiến thức CĐS: Với những kiến thức đầy đủ về CĐS, các DNTNNVV có thể xác định được mình cần làm gì, đầu tư vào đâu để tránh những sai lầm, lãng phí nguồn lực và phương pháp, cách tiếp cận nào là phù hợp nhất với đặc điểm doanh nghiệp của mình (Greff và cộng sự, 2018). Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:

H3: Kiến thức CĐS đầy đủ có ảnh hưởng thúc đẩy tích cực DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS.

Hệ thống tổ chức của doanh nghiệp: Để thúc đẩy quá trình CĐS, sẽ có những yếu tố cần bổ sung và những yếu tố cần tinh chỉnh cả về tổ chức lẫn quản lý (Berman, 2012). Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:

H4: Hệ thống tổ chức thích nghi với công nghệ kỹ thuật số có ảnh hưởng thúc đẩy tích cực DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS.

Tài chính: Các DNTNNVV phải có đủ tiềm lực tài chính nhằm xây dựng và duy trì hệ thống công nghệ số hoạt động lâu dài (Ferreira và cộng sự, 2017). Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:

H5: Tiềm lực tài chính tăng lên có ảnh hưởng thúc đẩy tích cực DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS.

Nền tảng công nghệ: Nền tảng công nghệ cho phép các DNTNNVV có điều kiện CĐS thành công và đạt được các kỳ vọng hiệu quả đã đặt ra (Hinings và cộng sự, 2018). Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết sau:

H6: Nền tảng công nghệ đầy đủ có ảnh hưởng thúc đẩy tích cực DNTNNVV quyết định thực hiện CĐS.

Phương pháp nghiên cứu

Để đánh giá tác động của các yếu tố ảnh hưởng đối với quyết định CĐS của các DNTNNVV tại TP. Hải Phòng, tác giả sử dụng dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát bằng bảng hỏi. Đối tượng khảo sát bao gồm đại diện (quản lý) các DNTNNVV ở TP. Hải Phòng. Để đảm bảo độ tin cậy của dữ liệu, tác giả đã lựa chọn thu thập 450 mẫu. Kết quả thu về được 427 mẫu để sử dụng cho nghiên cứu. Dữ liệu được mã hóa và được đưa vào phần mềm AMOS và SmartPLS. Khảo sát được thực hiện vào tháng 12/2024 (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Phân tích độ tin cậy và hội tụ của thang đo

Bảng 1 trình bày các chỉ số đảm bảo cho dữ liệu nghiên cứu là phù hợp bao gồm: độ tin cậy của thang đo (Cronbach’s Alpha) nằm trong khoảng từ 0.7 đến 0.95 có độ tin cậy cao (Marcoulides và Chin, 2013); độ tin cậy (tính nhất quán) Outer Loading > 0.5; độ tin cậy Composite Reliability > 0.7 và độ giá trị hội tụ AVE > 0.5. Tất cả các giá trị của các tiêu chí này đã được thỏa mãn, cho thấy các thang đo được tác giả nghiên cứu có độ tin cậy cao, phù hợp để đưa vào phân tích nhân tố. Chỉ số VIF cũng

Bảng 1: Độ tin cậy và giá trị hội tụ của các thang đo

Biến

Nhân tố

Cronbach's Alpha

Composite

Reliability

Average Variance Extracted

Loading

VIF

Nền tảng

công nghệ

(CN)

CN1

0.848

0.887

0.568

0.758

1.858

CN2

0.711

1.671

CN3

0.759

1.82

CN4

0.744

1.719

CN5

0.798

2.013

CN6

0.749

1.7

Chính sách

quản lý và hỗ

trợ từ chính

phủ (CSCP)

CSXH1

0.775

0.845

0.524

0.728

1.615

CSXH2

0.634

1.46

CSXH3

0.803

1.663

CSXH4

0.705

1.431

CSXH5

0.739

1.557

Hệ thống tổ

chức của

doanh nghiệp

(HT)

HT1

0.799

0.859

0.552

0.796

1.73

HT2

0.608

1.408

HT3

0.778

1.717

HT4

0.706

1.444

HT5

0.807

1.695

Kiến thức

CĐS (KT)

KT1

0.856

0.897

0.634

0.809

2.112

KT2

0.797

2.009

KT3

0.785

2.085

KT4

0.79

2.018

KT5

0.801

2.023

Kỳ vọng

hiệu quả

(KV)

KV1

0.842

0.884

0.56

0.709

1.712

KV2

0.812

2.219

KV3

0.785

1.952

KV4

0.672

1.614

KV5

0.76

1.654

KV6

0.741

1.684

Tài chính

(TC)

TC1

0.79

0.864

0.614

0.734

1.472

TC2

0.819

1.809

TC3

0.81

1.738

TC4

0.768

1.542

Quyết định

chuyển đổi

số của

DNTNNVV

(QD)

QD1

0.868

0.901

0.602

0.774

1.879

QD2

0.752

1.896

QD3

0.763

1.879

QD4

0.808

2.128

QD5

0.8

2.014

QD6

0.757

1.905

Nguồn: Tác giả tính toán

Kiểm tra giá trị phân biệt của các biến

Giá trị phân biệt được kiểm tra bằng cách sử dụng tiêu chí Fornell-Larcker (1981), thể hiện mức độ khác biệt của một yếu tố với các yếu tố còn lại, tương tự như tỷ lệ HTMT. Số liệu phân tích (Bảng 2) cho thấy, thang đo đảm bảo tính phân biệt bởi tương quan giữa các cặp biến nhỏ hơn căn bậc 2 giá trị AVE (giá trị đường chéo).

Bảng 2: Tiêu chuẩn Fornell-Larcker

CN

CSXH

HT

KT

KV

QD

TC

CN

0.754

CSCP

0.222

0.724

HT

0.156

0.187

0.743

KT

0.343

0.287

0.154

0.797

KV

0.115

0.344

0.124

0.221

0.748

QD

0.416

0.437

0.246

0.433

0.417

0.776

TC

0.203

0.32

0.178

0.18

0.137

0.295

0.783

Nguồn: Tác giả tính toán

Số liệu (Bảng 3) thể hiện chỉ số HTMT do Henseler và cộng sự (2015) đề xuất. Kết quả cho thấy, giá trị phân biệt giữa các cặp biến tiềm ẩn đều được đảm bảo (

Bảng 3: Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT)

CN

CSXH

HT

KT

KV

QD

TC

CN

CSCP

0.267

HT

0.186

0.223

KT

0.403

0.339

0.177

KV

0.137

0.418

0.152

0.256

QD

0.481

0.515

0.281

0.493

0.48

TC

0.245

0.399

0.224

0.219

0.174

0.355

Nguồn: Tác giả tính toán

Mô hình cấu trúc ước tính

Mô hình cấu trúc được ước tính trên toàn bộ mẫu bằng PLS, sử dụng phương pháp lấy mẫu lặp lại (bootstrapping) bởi nó không yêu cầu các giả định về phân phối lấy mẫu, giúp cho ước lượng chính xác hơn và các thử nghiệm thường có sức mạnh hơn so với các phương pháp truyền thống.

Kết quả Hình và Bảng 4 cho thấy, sự quyết định CĐS của doanh nghiệp được giải thích 43% bởi các biến được khảo sát. Như vậy, tất cả các nhân tố con đều có ý nghĩa thống kê, tạo nên các biến tiềm ẩn phù hợp với mô hình nghiên cứu. Các giả thuyết nghiên cứu đều được chấp nhận. Đầu tiên, Chính sách quản lý và hỗ trợ từ chính phủ có tác động tích cực tới quyết định CĐS của doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hải Phòng (0.188) với mức ý nghĩa thống kê 1%. Trong đó, sự hỗ trợ, đồng hành của chính phủ trong quá trình CĐS của doanh nghiệp có tác động lớn nhất đến bối cảnh CĐS hiện nay. Thực tế cho thấy, sự hỗ trợ từ chính phủ hay áp lực từ tình hình thị trường, nhu cầu của khách hàng sẽ có tác động tích cực đến nhận thức, hành vi của ban quản trị doanh nghiệp đối với quá trình CĐS. Khi bối cảnh môi trường có ảnh hưởng mạnh mẽ, nó sẽ tạo ra động lực để doanh nghiệp thúc đẩy CĐS.

Hình: Kết quả mô hình cấu trức tuyến tính PLS - SEM

Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi số của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa ở TP. Hải Phòng

Nguồn: Tác giả tính toán

Bảng 4: Kết quả kiểm định giả thuyết

Original Sample (O)

Sample Mean (M)

Standard Deviation (STDEV)

T Statistics (|O/STDEV|)

P Values

CN -> QD

0.239

0.238

0.042

5.678

0.000

CSCP -> QD

0.188

0.192

0.05

3.732

0.000

HT -> QD

0.093

0.095

0.036

2.603

0.010

KT -> QD

0.209

0.208

0.046

4.587

0.000

KV -> QD

0.254

0.256

0.046

5.5

0.000

TC -> QD

0.097

0.099

0.042

2.319

0.021

Nguồn: Tác giả tính toán

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý

Kết quả nghiên cứu cho thấy, Kỳ vọng hiệu quả có tác động tích cực (0.254) tới quyết định CĐS của DNTNNVV. Khi doanh nghiệp hướng tới mục tiêu cải thiện hiệu quả hoạt động, giảm chi phí, tăng năng suất và mở rộng thị trường, họ thường tìm đến các giải pháp công nghệ số để đạt được những mục tiêu này. Doanh nghiệp thấy rõ lợi ích từ việc áp dụng công nghệ số, như cải thiện quy trình làm việc hay tăng cường trải nghiệm khách hàng, họ sẽ có thêm động lực để tiếp tục chuyển mình trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Hệ thống tổ chức của doanh nghiệp cũng đóng góp vào quyết định CĐS của DNTNNVV (chủ yếu là nguồn lực con người). Thực tế, các DNTNNVV tại Hải Phòng thường gặp khó khăn do quy mô và nguồn nhân lực bị hạn chế, đặc biệt là thiếu hụt những người có trình độ và kỹ năng liên quan đến CĐS. Do đó, một hệ thống tổ chức tốt không chỉ cung cấp cơ cấu cho sự CĐS, mà còn tạo ra môi trường phù hợp để nguồn lực con người có thể phát huy tối đa khả năng của mình trong quá trình này.

Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp để đầu tư cho quá trình CĐS là yếu tố quan trong cho việc doanh nghiệp này có quyết định CĐS hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy một nguồn lực tài chính đầy đủ thúc đẩy quyết định CĐS của doanh nghiệp với mức ý nghĩa thống kê cao. Khi doanh nghiệp nhận thấy mình có đủ nguồn lực và sẵn sàng cho CĐS, họ sẽ thể hiện thái độ tích cực và hành động hỗ trợ cho quá trình này.

Kiến thức CĐS đóng vai trò quan trọng trong quyết định CĐS của DNTNNVV. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi các nhà lãnh đạo có đủ kiến thức, sự hiểu biết về cách xây dựng, vận hành, đầy đủ dữ liệu tích hợp thì doanh nghiệp sẽ sẵn sàng cho quá trình CĐS của mình hơn. Khi các doanh nghiệp và nhà quản trị nhận ra tầm quan trọng của CĐS trong nền kinh tế số, họ sẽ xây dựng các chiến lược, tầm nhìn, và mục tiêu để thúc đẩy CĐS cho doanh nghiệp, nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh và cải thiện hiệu quả kinh doanh. Do đó, định hướng, kiến thức số có sự tác động rõ ràng đến khả năng sẵn sàng tham gia vào CĐS của doanh nghiệp.

Cuối cùng, Nền tảng công nghệ đóng vai trò then chốt trong quyết định CĐS của DNTNNVV. Hạ tầng cơ sở và công nghệ càng cao thì quyết định CĐS của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, tại Hải Phòng, hạ tầng cơ sở vật chất và công nghệ của các DNNVV vẫn còn nhiều hạn chế do quy mô nhỏ và nguồn vốn tài chính có phần hạn hẹp, đặc biệt sau giai đoạn khó khăn do dịch COVID-19. Dù vậy, nhiều doanh nghiệp vẫn chú trọng đến quá trình CĐS, vì họ nhận thức được tầm quan trọng và xu hướng hiện tại của thị trường. Do đó, các công nghệ số với chi phí thấp như internet, máy tính, điện thoại thông minh và các phần mềm quản lý, chăm sóc khách hàng được các doanh nghiệp này áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Đối với các doanh nghiệp nói chung, hạ tầng cơ sở vật chất và công nghệ là yếu tố quan trọng, tạo nền tảng cần thiết cho quá trình CĐS. Thông qua việc sử dụng internet, máy tính và điện thoại thông minh, các doanh nghiệp đang tích cực triển khai những phần mềm đơn giản nhưng hiệu quả để tối ưu hóa giá trị sản phẩm và dịch vụ, thu hút nhiều khách hàng hơn. Hiện nay, khó có thể tìm thấy một DNNVV nào trên địa bàn Hải Phòng chưa sử dụng máy tính hoặc internet trong hoạt động của mình. Điều này càng khẳng định rằng, mặc dù hạ tầng cơ sở vật chất và công nghệ còn ở mức đơn giản, nhưng nó vẫn có ảnh hưởng tích cực đến mức độ CĐS của các doanh nghiệp này.

Tài liệu tham khảo:

1. Berman, S. J., and Bell, R. (2011). Digital transformation: Creating Nnew business models. Strategy and Leadership, 40(2)

2. Ferreira, R.T.L., et al. (2017) Experimental Characterization and Micrography of 3D Printed PLA and PLA Reinforced with Short Carbon Fibers. Composites Part B: Engineering, 124, 88-100.

3. Fornell, C., and Larcker, D. F. (1981). Structural Equation Models with Unobservable Variables and Measurement Error: Algebra and Statistics. Journal of Marketing Research, 18, 382-388.

4. Greff, T., Neu, C., Johann, D., and PuciharWerth, D. (2018). Digitization driven design - a guideline to initialize digital business model creation. In B. Shishkov (ed.). Business Modeling and Software Design, Bmsd 2018, Berlin: Springer-Verlag Berlin, 308-318.

5. Hinings, B., Gegenhuber, T., and Greenwood, R. (2018). Digital innovation and transformation: An institutional perspective. Information and Organization, 28(1), 52-61.

6. Kutnjak, A., Pihiri, I., and Tomicic Furjan, M. (2019). Digital Transformation Case Studies across Industries - Literature Review. In 2019 42nd International Convention on Information and Communication Technology, Electronics and Microelectronics (MIPRO).

7. Marcoulides, G. A., and Chin, W. W. (2013). You write, but others read: Common methodological misunderstandings in PLS and related methods. In New perspectives in partial least squares and related methods (31-64). Springer New York.

8. Zhu, J., Baker, J. S., Song, Z., Yue, X. G., and Li, W. (2023). Government regulatory policies for digital transformation in small and medium-sized manufacturing enterprises: an evolutionary game analysis. Humanities and Social Sciences Communications, 10(1), 1-18.

Ngày nhận bài: 17/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 26/7/2025; Ngày duyệt đăng: 28/7/2025