Nguyễn Duy Linh, Phan Phương Tâm, Nguyễn Công Hiếu
Khoa Tài Chính, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Email: linhnd@hub.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của 28 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn từ năm 2012–2023. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu thu thập từ nền tảng Fiinpro và Ngân hàng Thế giới, đồng thời, vận dụng phương pháp định lượng GMM nhằm xử lý hiện tượng nội sinh và hạn chế các sai lệch trong mô hình ước lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ cạnh tranh có tác động cùng chiều đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại. Khi tồn tại trong môi trường cạnh tranh, ngân hàng thương mại sẽ nỗ lực tối ưu hóa quy trình hoạt động và giảm chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ. Hơn thế nữa, cạnh tranh gay gắt khuyến khích các ngân hàng đầu tư vào công nghệ và phát triển sản phẩm, dịch vụ, đồng thời cải thiện khả năng quản lý rủi ro, giảm tỷ lệ nợ xấu từ đó thúc đẩy gia tăng hiệu quả hoạt động.
Từ khóa: Mức độ cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, ngân hàng thương mại
Summary
The study analyzes the impact of competition on the operational efficiency of 28 Vietnamese commercial banks during the 2012-2023 period. The research uses a dataset collected from the Fiinpro platform and the World Bank, employing the Generalized Method of Moments (GMM) estimator to address endogeneity issues and minimize estimation bias. The results indicate that the level of competition positively affects the operational efficiency of commercial banks. In a competitive environment, banks strive to optimize their processes, reduce costs, and improve service quality. Furthermore, intense competition encourages banks to invest in technology, develop products and services, enhance risk management capabilities, and reduce non-performing loan ratios, thereby promoting operational efficiency.
Keywords: competition level, operational efficiency, commercial bank
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, ngành Ngân hàng chứng kiến sự gia tăng cạnh tranh mạnh mẽ, nhất là từ sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính. Điều này tạo áp lực buộc các ngân hàng thương mại (NHTM) phải nâng cao hiệu quả hoạt động và xây dựng chiến lược cạnh tranh. Cạnh tranh trong ngành có thể giúp cải thiện hiệu quả thông qua tối ưu hóa quy trình và giảm lãng phí (Berger và Mester, 1997). Uddin và Suzuki (2014) cũng khẳng định rằng, cạnh tranh là yếu tố then chốt giúp gia tăng hiệu quả vận hành và đổi mới dịch vụ ngân hàng. Nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của mức độ cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, qua đó, không chỉ làm rõ vai trò của mức độ cạnh tranh trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, mà còn hàm ý rằng việc duy trì một mức độ tập trung hợp lý trong ngành Ngân hàng có thể là một yếu tố hỗ trợ tăng trưởng bền vững của hệ thống NHTM.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu của Mateev và cộng sự (2023), Guidi (2021), Kasman và Kasman (2015) đã chỉ ra rằng, cạnh tranh đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, thông qua việc thúc đẩy cải thiện chất lượng dịch vụ, tối ưu hóa quy trình và nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Cạnh tranh cũng khuyến khích đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm và kiểm soát chi phí hiệu quả hơn, từ đó, cải thiện năng suất và giảm lãng phí. Đồng thời, khách hàng được hưởng lợi từ các điều kiện tài chính ưu đãi, góp phần tăng cường sức mạnh tài chính toàn hệ thống.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Cristian và Leonarsan (2020), Olweny và Shipho (2011), trong bối cảnh kinh tế biến động, cạnh tranh quá mức có thể gây tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Việc giảm lãi suất hoặc ưu đãi tài chính nhằm thu hút khách hàng có thể làm thu hẹp biên lợi nhuận, giảm doanh thu và lợi nhuận. Đồng thời, chi phí cho marketing gia tăng mà hiệu quả chưa chắc đảm bảo, cùng với áp lực cạnh tranh khiến ngân hàng khó đầu tư vào công nghệ, quản trị rủi ro và nâng cao chất lượng dịch vụ. Hệ quả là gia tăng rủi ro tín dụng và suy giảm chất lượng tài sản.
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã phân tích mối quan hệ giữa cạnh tranh và hiệu quả hoạt động ngân hàng. To (2023) sử dụng chỉ số Herfindahl–Hirschman Index (HHI) và nhận thấy rằng cạnh tranh gia tăng làm giảm lợi nhuận nhưng cải thiện biên lãi ròng (NIM). Trong khi đó, Phạm Thủy Tú và Đào Lê Kiều Oanh (2021) sử dụng chỉ số Lerner và kết luận năng lực cạnh tranh cao góp phần nâng cao ổn định tài chính.
Khác với các nghiên cứu trước, bài viết này sử dụng chỉ số tập trung (Concentration Ratio – CR) để đo lường mức độ cạnh tranh, cung cấp cách tiếp cận trực quan thông qua thị phần của các ngân hàng lớn, đồng thời, áp dụng các kiểm định tính vững để đảm bảo độ tin cậy của kết quả.
Mô hình nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ Fiinpro của 28 NHTM hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2012-2023. Theo Guidi (2021), mô hình nghiên cứu thực nghiệm được sử dụng trong bài như sau:
![]() |
Kế thừa các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu sử dụng các biến gồm ROE và ROA là biến phụ thuộc của mô hình nghiên cứu. CRt-1 đại diện cho mức độ cạnh tranh của k ngân hàng lớn năm t so với năm t – 1 và đo lường bằng tổng thị phần của ngân hàng thứ nhất đến ngân hàng thứ k với giá trị k được lựa chọn là 4 ngân hàng quốc doanh lớn hiện nay của Việt Nam bao gồm: Agribank, Vietcombank, Vietinbank và BIDV.
CONTROL là 1 vector gồm các biến LLR (tỷ số giữa dự phòng cho vay khách hàng trên tổng tài sản), SIZE (logarithm tự nhiên của tổng tài sản ngân hàng) CAP (tỷ số giữa VCSH và tổng tài sản), LOAN (tỷ số giữa dư nợ cho vay khách hàng và tổng tài sản), DEP (tỷ số giữa huy động vốn khách hàng và tổng tài sản). Vector MACRO gồm GDP (tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm) và INF (tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế Việt Nam).
Thông qua những kiểm tra khuyết tật của mô hình, dữ liệu cho thấy mô hình bị nội sinh, do đó, phương pháp phù hợp cho bài nghiên cứu là mô hình định lượng GMM (Blundell và Bond, 1998).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thống kê mô tả
Bảng 1 trình bày thống kê mô tả các biến trong mô hình thực nghiệm. Kết quả cho thấy, ROE trung bình dương, phản ánh khả năng sinh lời và hiệu quả sử dụng vốn tốt của các NHTM Việt Nam. Mức độ cạnh tranh trung bình đạt 0,541 – cao hơn mức 0,247 tại Ấn Độ, cho thấy sự cạnh tranh cao hơn tại Việt Nam. Quy mô ngân hàng trung bình là 32,572 vượt xa mức 18,6 tại các nước phát triển châu Á, phản ánh thị trường ngân hàng Việt Nam tập trung hơn với số lượng ngân hàng lớn ít hơn.
Bảng 1: Thống kê mô tả các biến trong nghiên cứu
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Phân tích hồi quy
Bảng 2 trình bày kết quả hồi quy theo phương pháp GMM, trong đó, hệ số của biến CR có ý nghĩa thống kê ở mức 1. Kết quả này cho thấy, mối quan hệ tích cực giữa mức độ tập trung ngành (đại diện cho mức độ cạnh tranh) và hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam. Kết quả này nhất quán với các nghiên cứu trước của Kasman và Kasman (2015) và Mateev và cộng sự (2023) khẳng định rằng, khi thị trường bị chi phối bởi một số ngân hàng lớn với năng lực cạnh tranh cao, các ngân hàng này có xu hướng đạt được hiệu quả hoạt động vượt trội.
Một cách cụ thể, các ngân hàng lớn thường sở hữu lợi thế về quy mô, công nghệ, mạng lưới phân phối và nguồn lực tài chính, từ đó, triển khai các chiến lược kinh doanh hiệu quả và kiểm soát rủi ro tốt hơn. Điều này phù hợp với lập luận của Rastogi và cộng sự (2022), theo đó, những ngân hàng có vị thế cạnh tranh cao thường xây dựng được hệ thống quản trị rủi ro hiệu quả, duy trì tỷ suất sinh lời ổn định và củng cố nền tảng tài chính vững chắc. Ngoài ra, sự tập trung thị trường cũng có thể tạo ra lợi thế về mặt chi phí, nâng cao năng suất lao động và hỗ trợ việc đổi mới sản phẩm – dịch vụ, qua đó, đóng góp tích cực vào hiệu quả hoạt động tổng thể của ngân hàng.
Do đó, kết quả này không chỉ làm rõ vai trò của mức độ cạnh tranh trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, mà còn hàm ý rằng việc duy trì một mức độ tập trung hợp lý trong ngành Ngân hàng có thể là một yếu tố hỗ trợ tăng trưởng bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Bảng 2: Tác động của CR
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
Kiểm định tính vững
Nhằm củng cố thêm kết quả của nghiên cứu, nhóm tác giả quyết định thực hiện kiểm tra tính vững cho mô hình nghiên cứu, với mức độ cạnh tranh được đo lường bằng chỉ số HHI. Chỉ số này giúp phản ánh mức độ tập trung thị trường, chỉ số càng cao, sự tập trung càng lớn và mức độ cạnh tranh càng thấp.
Bảng 3 trình bày kết quả nghiên cứu khi sử dụng chỉ số Herfindahl–Hirschman Index (HHI) làm đại diện thay thế cho mức độ cạnh tranh. Kết quả cho thấy, hệ số hồi quy của HHI đạt giá trị 4,201 với ý nghĩa thống kê ở mức 1%, tương tự như mô hình trước đó với chỉ số CR. Điều này khẳng định mối quan hệ tích cực và ổn định giữa mức độ cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các NHTM.
Bảng 3: Thang đo tahy thế của mức độ cạnh tranh
![]() |
Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả |
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ cạnh tranh có mối quan hệ tác động dương đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ở các mô hình nghiên cứu thực nghiệm. Nghiên cứu đã thực hiện kiểm định tính vững của mô hình thông qua việc thay đổi đại diện đo lường mức độ cạnh tranh từ CR thành HHI nhằm củng cố thêm lập luận cho mô hình nghiên cứu. Các biến kiểm soát cũng có mối quan hệ đến biến phụ thuộc trong mô hình và đạt ý nghĩa thống kê ở các mức. Kết quả thu được từ nghiên cứu này tương tự như các nghiên cứu trước, tuy nhiên, nghiên cứu tiếp cận mức độ cạnh tranh bằng phương pháp khác so với các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abbas, F., Iqbal, S., & Aziz, B. (2019). The impact of bank capital, bank liquidity and credit risk on profitability in the postcrisis period: A comparative study of US and Asia. Cogent Economics & Finance, 7(1), 1605683.
2. Berger, A. N., & Mester, L. J. (1997). "Inside the black box: What explains differences in the efficiencies of financial institutions?" Journal of Banking & Finance, 21(7), 895-947.
3. Blundell, R., & Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models. Journal of Econometrics, 87(1), 115-143
4. Cristian, E., Leonarsan, W., & Kim, S. S. (2020). The impacts of competition, efficiency, and risk towards bank’s performance in Indonesia. Journal Keuangan Dan Perbankan, 24(4), 407–419.
5. Guidi, F. (2021). Concentration, competition and financial stability in the South-East Europe banking context. International Review of Economics & Finance, 76, 639–670
6. Kasman, S., & Kasman, A. (2015). Bank competition, concentration and financial stability in the Turkish banking industry. Economic Systems, 39(3), 502–517.
7. Mateev, M., Usman Tariq, M., & Sahyouni, A. (2023). Efficiency, market concentration and bank performance during the COVID-19 outbreak: Evidence from the MENA region. Plos One, 18(5), e0285403
8. Olweny, T., & Shipho, T. M. (2011). Effects of banking sectoral factors on the profitability of commercial banks in Kenya. Economics and Finance Review, 1(5), 1–30.
9. Phạm Thủy Tú, Đào Lê Kiều Oanh (2021). Tác động của năng lực cạnh tranh đến mức độ ổn định tài chính của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trước bối cảnh tham gia Hiệp định CPTPP. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính-Marketing, 1-14.
10. Rastogi, S., Kanoujiya, J., Bhimavarapu, V. M., & Gautam, R. S. (2022). The impact of competition on the profitability and Risk-Taking of commercial banks in India. The Journal of Asian Finance, Economics and Business, 9(5), 377-388.
11. To, V.S. (2023). Impact of competition on the profitability of commercial banks in Vietnam. Journal of Finance – Marketing, 14(5), 336-351.
12. Uddin, S. S., & Suzuki, Y. (2014). The impact of competition on bank performance in Bangladesh: an empirical study. International Journal of Financial Services Management 2, 7(1), 73-94.
Ngày nhận bài: 02/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 20/5/2025; Ngày duyệt đăng: 10/06/2025 |