TS. Tô Trọng Hùng
Học viện Chính sách và Phát triển
Email: tronghungto@gmail.com
Tóm tắt
Bài viết tập trung phân tích thực trạng phát triển kinh tế ở khía cạnh tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cũng như phân tích đánh giá kết quả đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng ngành kinh tế. Kết quả phân tích cho thấy, đóng góp của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào phát triển kinh tế ở Bắc Ninh có xu hướng giảm dần qua các năm, mặc dù Bắc Ninh là tỉnh có nền công nghiệp - dịch vụ phát triển hàng đầu của Việt Nam. Sự phát triển kinh tế Bắc Ninh chủ yếu dựa vào mở rộng quy mô sản xuất, tích tụ vốn, cải thiện logistics, cơ giới hóa, thay vì đổi mới công nghệ nội sinh từ doanh nghiệp trong tỉnh. Từ các hạn chế nêu trên, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao tỷ lệ đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn tới,
Từ khóa: Kinh tế Bắc Ninh, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo
Summary
The article focuses on analyzing the current state of economic development in terms of economic growth, and economic sector restructuring, as well as analyzing and evaluating the contributions of science, technology, and innovation to economic growth. The analysis results show that the contribution of science, technology, and innovation to economic development in Bac Ninh tends to decrease over the years, although Bac Ninh is a province with the leading industrial and service development in Vietnam. The economic growth of Bac Ninh province principally relies on expanding production scale, capital accumulation, improving logistics, and mechanization, instead of endogenous technological innovation from enterprises in the province. From the above limitations, the article proposes several recommendations to increase the contribution rate of science, technology, and innovation in the economic development of Bac Ninh Province in the coming period.
Keywords: Bac Ninh Economy, Science and Technology, Innovation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, phát triển kinh tế Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, khẳng định vai trò trung tâm công nghiệp và kinh tế năng động của miền Bắc, Những bước tiến này giúp Bắc Ninh khẳng định vị thế và đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của cả nước.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh thời gian gần đây có xu hướng chậm lại một phần là do sự sụt giảm sản lượng của khu vực FDI, phần khác là do tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh vẫn thiên về chiều rộng và phụ thuộc lớn khu vực FDI, Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng như nội bộ ngành kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và xu thế phát triển hiện nay, Vì vậy, trong giai đoạn tới phát triển kinh tế Bắc Ninh cần phải đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số sẽ giúp Bắc Ninh phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH QUA CÁC GIAI ĐOẠN
Về Tăng trưởng GRDP: GRDP (giá so sánh 2010) bình quân giai đoạn 2011-2020 của tỉnh đạt 12,44%/năm, cao hơn mức 6%/năm bình quân cả nước và 11,89% của vùng đồng bằng sông Hồng, Quy mô GRDP (theo giá hiện hành) năm 2020 đạt 208,985 tỷ đồng, gấp 3,33 lần năm 2011 (Hình 1); đứng thứ 4 trong vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 8/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tỷ trọng kinh tế của Bắc Ninh trong cơ cấu GDP toàn quốc đã tăng thêm 1% từ mức 2,3% năm 2011 lên 3,3% năm 2020, GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 147,4 triệu đồng/người, tương đương 6,322 USD/người (gấp 3,4 lần so với năm 2010), gấp 2,3 lần mức trung bình chung của cả nước (GDP bình quân đầu người năm 2020 của cả nước là 2,750 USD), thể hiện rõ vai trò là đầu tàu, liên kết và phát triển kinh tế trong vùng Đồng bằng sông Hồng.
Hình 1: Tăng trưởng kinh tế Bắc Ninh giai đoạn 2011 - 2024
![]() |
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh
Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã tích cực chỉ đạo các sở, ban, ngành tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, tích cực triển khai các giải pháp giải quyết triệt để các khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong phát triển kinh tế - xã hội, hàng quý xây dựng Kế hoạch điều hành tăng trưởng kinh tế - xã hội với danh sách các nhiệm vụ cụ thể, gắn với trách nhiệm triển khai, thời hạn hoàn thành của từng cơ quan, đơn vị để khơi thông nguồn lực, thúc đẩy các đột phá, tạo ra các xung lực phát triển mới.
Theo đó, năm 2024 tỉnh Bắc Ninh ghi nhận tín hiệu phục hồi tích cực, tốc độ tăng trưởng GRDP 6,03% so với cùng kỳ 2023, GRDP (giá hiện hành) cả năm 2024 đạt 232,7 nghìn tỷ đồng, Với tốc độ tăng trưởng như trong thời gian qua, Bắc Ninh không chỉ góp phần trở thành cực tăng trưởng của vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Thủ đô, mà còn đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng chung của cả nước.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế âm năm 2023, phục hồi năm 2024 và năm 2025 nhưng chưa đủ để bù đắp được mục tiêu tăng trưởng toàn giai đoạn 2020–2025 là từ 7,0%-8%, thực tế tăng trưởng giai đoạn 2020–2025 của tỉnh Bắc Ninh chỉ đạt 3,42%-3,8%, Những hạn chế lớn chưa được khắc phục như: sự phụ thuộc lớn của nền kinh tế vào khu vực FDI; Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có vốn đầu tư trong nước đa số có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu, chưa thu hút đa dạng dòng vốn FDI; Kinh tế khu vực trong nước (doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế tư nhân, hợp tác xã, làng nghề) một bộ phận năng lực quản trị thấp và chưa liên kết có hiệu quả với khu vực kinh tế nước ngoài.,
Hình 2: Tỷ trọng GRDP Bắc Ninh đóng góp vào cả nước
![]() |
Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh và cả nước
Về cơ cấu kinh tế: Từ một tỉnh với nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, nhờ định hướng đưa Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp với nhiều cơ chế, chính sách được vận dụng linh hoạt đã góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế, Nếu năm 1997, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (45%); khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 23,8%; khu vực dịch vụ chiếm 31,2%, thì đến năm 2021, tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất là 77,3% và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ nhất với 2,7%, Trong khi đó, tỷ trọng khu vực dịch vụ sụt giảm khá nhiều, do quy mô công nghiệp tăng nhanh và từ năm 2020 lại bị tác động của dịch Covid-19, nhiều ngành dịch vụ sụt giảm sâu, nên tỷ trọng đến năm 2021 còn 16,1%; còn tỷ trọng thuế sản phẩm duy trì ở mức 3,9% (Hình 2).
Hình 3: Chuyển dịch cơ cấu khu vực kinh tế tỉnh Bắc Ninh qua các năm
![]() |
Nguồn: Niêm giám Thống kê Bắc Ninh
Trong năm 2024, ngành công nghiệp – xây dựng tiếp tục đóng vai trò chủ lực, chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của tỉnh khoảng 70,4%; ngành dịch vụ chiếm 22,3%; ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 3%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4,3%, Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bắc Ninh về cơ bản đang chuyển dịch theo hướng tích cực theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, song song với tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, Trong đó, ngành dịch vụ được đặc biệt quan tâm đầu tư và phát triển, bảo đảm định hướng phát triển bền vững trong trung và dài hạn (hình 3).
Tuy nhiên, một số vấn đề hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn tồn tại như: Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa bắt kịp với xu thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp bền vững, Kinh tế nông thôn chưa phát triển, thiếu liên kết; các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chế biến làm tăng giá trị nông nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và đáp ứng nhu cầu phát triển, Cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp còn chậm đầu tư hạ tầng kỹ thuật, Ngành dịch vụ chưa phát huy tiềm năng, chưa tạo được sự bứt phá, quy mô nhỏ lẻ, thương mại chưa phát triển nhiều hình thức mới, hiện đại như liên kết "chuỗi", Các lĩnh vực du lịch, công nghiệp văn hóa chưa có sản phẩm đa dạng, đặc trưng, chất lượng chưa cao, hiệu quả thấp.
ĐÓNG GÓP CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO VÀO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH BẮC NINH
Trong giai đoạn 2011–2024, đóng góp của KHCN và ĐMST vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh có xu hướng giảm dần, dù tỉnh này vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao và là một trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước, Nhìn trên toàn Tỉnh, trong giai đoạn 2011–2015, KHCN đóng góp trung bình 30,29% vào năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và từ đó tạo ra khoảng 8,96% giá trị gia tăng (VA), Đây là giai đoạn bùng nổ đầu tư FDI, đặc biệt là sự xuất hiện của Tổ hợp Samsung đã tạo cú hích lớn về công nghệ và tổ chức sản xuất, Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2016–2020, mặc dù TFP tiếp tục gia tăng, chiếm 40,10% trong cơ cấu VA, nhưng đóng góp của KHCN vào TFP chỉ còn 22,72%, và vào VA là 9,10%, cho thấy hiệu quả từ KHCN đang bị chững lại, Điều này có thể lý giải bởi việc tăng trưởng chủ yếu nhờ mở rộng quy mô sản xuất, tích tụ vốn, cải thiện logistics, cơ giới hóa, thay vì đổi mới công nghệ nội sinh từ doanh nghiệp trong Tỉnh.
Đặc biệt, giai đoạn 2021–2024 chứng kiến sự suy giảm rõ rệt hơn nữa, khi KHCN chỉ còn đóng góp 20,05% vào TFP và 8,06% vào VA, Dù tỉnh Bắc Ninh tiếp tục duy trì tốc độ công nghiệp hóa, với nhiều dự án công nghiệp điện tử, công nghệ cao, nhưng tỷ lệ lan tỏa công nghệ và sáng tạo trong doanh nghiệp nội địa vẫn rất hạn chế, Phần lớn giá trị tăng thêm vẫn đến từ khu vực FDI, nơi công nghệ được nhập khẩu nguyên chiếc, và doanh nghiệp Việt chỉ tham gia ở tầng thấp trong chuỗi cung ứng, như gia công, lắp ráp, Việc thiếu trung tâm R&D, thiếu liên kết giữa doanh nghiệp – trường viện – nhà nước khiến năng lực đổi mới khoa học công nghệ cũng như đổi mới sáng tạo (ĐMST) của toàn hệ sinh thái vẫn còn thấp,
Bảng : Đóng góp của KHCN, ĐMST vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh
![]() |
Nguồn: Số liệu Tổng cục thống kê, Cục Thống kê và tính toán của tác giả
Phân tích theo từng khu vực cho thấy, ngành công nghiệp – động lực chính của tăng trưởng Bắc Ninh – dù có TFP rất cao, lên đến 49,21% trong giai đoạn 2021–2024, nhưng KHCN chỉ đóng góp 30,05% vào TFP, và vào VA là 14,79% (Bảng), So với giai đoạn 2011–2015 (với 38,46% vào TFP và 16,74% vào VA), vai trò của công nghệ đang suy giảm tương đối, phản ánh thực trạng “tăng trưởng công nghiệp có hiệu suất nhưng thiếu chiều sâu sáng tạo”, Dịch vụ cũng gặp tình trạng tương tự: từ mức KHCN đóng góp 24,31% vào TFP (giai đoạn 2011–2015), giảm xuống còn 11,59% (giai đoạn 2021–2024), trong khi TFP trong dịch vụ lại tăng, Điều này cho thấy sự cải thiện về hiệu quả trong dịch vụ đến từ tổ chức vận hành và thị trường hơn là đổi mới công nghệ – đặc biệt trong các lĩnh vực logistics, bán lẻ, thương mại điện tử, vốn đang phát triển nhanh,
Ngành nông nghiệp có phần đặc biệt hơn, từ năm 2020 trở đi, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, TFP trong nông nghiệp lại phục hồi mạnh mẽ, chiếm đến 49,17% VA năm 2021, nhờ áp dụng chuyển đổi số và cơ giới hóa như hệ thống tưới thông minh, giám sát bằng camera, truy xuất nguồn gốc, Tuy nhiên, KHCN chỉ đóng góp 18,53% vào TFP (giai đoạn 2021–2024), thấp hơn nhiều so với mức 28,10% của giai đoạn 2011–2015, Điều này phản ánh thực tế rằng, phần lớn đổi mới trong nông nghiệp đến từ tiếp thu công nghệ sẵn có thay vì nghiên cứu phát triển tại chỗ, và người dân vẫn chưa tiếp cận được nhiều công cụ hỗ trợ sáng tạo, phần lớn do quy mô sản xuất nhỏ lẻ và thiếu liên kết.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Từ bức tranh này có thể thấy, dù Bắc Ninh đang tăng trưởng nhanh và hiệu quả hơn nhờ TFP, nhưng vai trò của KHCN, ĐMST – yếu tố cốt lõi của phát triển bền vững – lại đang bị thu hẹp, Nếu không sớm tái cấu trúc hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nguy cơ tỉnh sẽ rơi vào “bẫy công nghệ trung bình”, khi năng suất tăng nhưng không bền vững và thiếu khả năng cạnh tranh dài hạn, Bắc Ninh cần đẩy mạnh đầu tư cho R&D, khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị công nghệ cao, xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo cấp tỉnh và tạo cơ chế gắn kết các bên trong hệ sinh thái, Chỉ khi đó, KHCN, ĐMST mới thực sự đóng vai trò trung tâm trong động lực tăng trưởng, thay vì chỉ là yếu tố hỗ trợ như hiện nay./.
Tài liệu tham khảo
1. Cục Thống kê Bắc Ninh (2010-2024). Niên giám thống kê các năm, Nxb Thống kê.
2. Cục Thông tin Thống kê, Bộ Khoa học và Công nghệ (2023). Chiến lược, chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, truy cập từ https://vista,gov,vn/vi/news/chien-luoc-chinh-sach-kh-cn-dmst/chien-luoc-chinh-sach-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-7752,html.
3. Đồng Thanh Mai, Tô Thế Nguyên, Trần Văn Đức (2022). Ứng dụng mô hình ARDL phân tích mối quan hệ giữa di cư, thất nghiệp và tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh Bắc Ninh, truy cập từ https://ktpt,edu,vn/tap-chi/so-3052/muc-luc-598/ung-dung-mo-hinh-ardl-phan-tich-moi-quan-he-giua-di-cu-that-nghiep-va-tong-san-pham-tren-dia-ban-grdp-cua-tinh-bac-ninh,380943,aspx.
4. Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Ninh (2022). Bắc Ninh phấn đấu là thành phố công nghiệp hiện đại, công nghệ cao năm 2030, truy cập từ https://skhdt,bacninh,gov,vn/news/-/details/57283/bac-ninh-phan-au-la-thanh-pho-cong-nghiep-hien-ai-cong-nghe-cao-nam-2030-40809225.
5. Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Ninh (2024). Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP; tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và quý II năm 2024.
Ngày nhận bài: 21/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 02/6/2025; Ngày duyệt đăng: 10/6/2025 |