Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành da giày Việt Nam

Da giày là một trong 3 ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do một số nguyên nhân. Do đó, bài viết này nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam trong bối cảnh mới.

TS. Trần Thế Tuân

Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải

ThS. Trần Thị Minh Luyến

Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật – Thương mại

Tóm tắt

Ngành da giày Việt Nam là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, đóng góp đáng kể vào GDP và xuất khẩu. Bài viết này nhằm mục đích đánh giá khái quát về năng lực cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam. Từ đó, bài viết nêu lên một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam trong bối cảnh mới.

Từ khóa: Năng lực, cạnh tranh, da giày, Việt Nam

Summary

The Vietnamese leather and footwear industry is one of the country’s key economic sectors, making a significant contribution to GDP and export turnover. The article aims to provide an overview of the competitive capacity of Vietnam's leather and footwear industry. Based on this assessment, the study proposes several solutions to improve the industry's competitiveness in the context of ongoing economic transformations.

Keywords: Capacity, competitiveness, leather and footwear, Viet Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Da giày là một trong 3 ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240 doanh nghiệp đang hoạt động, ngành da giày đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, thu hút khoảng 500.000 lao động (Phạm Thị Hà An, 2024). Nhiều năm trở lại đây, ngành da giày Việt Nam liên tiếp đạt được những thành quả đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Ngành da giày đã “ghi tên” mình vào trong top 10 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về da giày.

Tuy nhiên, năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo nguyên vật liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, giá thành chi phí sản xuất cao. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chịu sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu quốc tế và còn nhiều bất cập trong công nghệ, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực năng lực xuất khẩu.

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DA GIÀY VIỆT NAM

Thực trạng xuất khẩu ngành da giày của Việt Nam

Trước năm 2020, xuất khẩu ngành da giày của Việt Nam đã không ngừng gia tăng. Năm 2020, ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 khiến xuất khẩu da giày - túi xách đạt 20 tỷ USD, giảm 10% so với 2019. Riêng kim ngạch xuất khẩu giày dép giảm xuống 8,3% so với năm trước, song đây cũng là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu vượt mức 10% tổng sản lượng giày dép của toàn thế giới.

Từ năm 2021, nền kinh tế hồi phục dần ở nhiều quốc gia, chuỗi sản xuất quốc tế được khôi phục làm hoạt động xuất khẩu da giày tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, đến năm 2023, do ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế thế giới, các thị trường chính của giày dép Việt Nam như Mỹ, EU ở trong tình trạng lạm phát cao, lượng hàng tồn kho lớn, ảnh hưởng đến nhu cầu nhập khẩu da giày tại các thị trường này, do vậy các doanh nghiệp Việt khó tìm kiếm đơn hàng và làm tốc độ tăng trường của ngành giảm 15,28% vào năm 2023 tương ứng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 20,24 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 5,71% so với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. Tính chung giai đoạn 2020-2023, kim ngạch xuất khẩu riêng ngành giày dép trung bình đáp ứng hơn 10% giá trị tổng cầu nhập khẩu giày dép của toàn thế giới, tương ứng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép chiếm khoảng 6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (Bảng 1).

Năm 2024, ngành da giày - túi xách năm 2024 vẫn đạt tổng kim ngạch xuất khẩu da giày ước đạt 27,04 tỷ USD, tăng 11,45%. Trong đó, xuất khẩu giày dép đạt 23,24 tỷ USD, tăng 13,16 % và valy-túi-cặp đạt 3,8 tỷ USD, tăng 9,7 % so với cùng kỳ năm 2023.

Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam giai đoạn 2020-2024

Nội dung

Năm 2020

Năm 2021

Năm 2022

Năm 2023

Năm 2024

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam (tỷ USD)

282,63

336,16

371,85

354,67

405,53

Kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam (tỷ USD)

16,79

17,75

23,89

20,24

22,5

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan

Hàng da giày Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào 4 thị trường chính là Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản, tổng giá trị xuất khẩu vào 4 thị trường này tính chung cả giai đoạn 2020-2023 đạt trung bình trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đặc biệt riêng thị trường Mỹ đã chiếm tỷ trọng xấp xỉ từ 35% đến hơn 41% trong tổng giá trị xuất khẩu hàng giày dép mỗi năm – là thị trường xuất khẩu số 1 của nước ta.

Các thị trường xuất khẩu của ngành da giày năm 2024 đều có sự tăng trưởng. Một số thị trường lớn như Mỹ, EU giữ được mức tăng trên 10%. Đáng chú ý, năm 2024 ngành da giày đã mở rộng xuất khẩu sang một số thị trường ở khu vực Nam Mỹ và Trung Đông. Thị trường Trung Đông được đánh giá là thị trường rất tiềm năng khi có nhu cầu tiêu dùng lớn và đa dạng.

Với giày dép, Trung Quốc đạt trên 1,90 tỷ USD; Nhật Bản đạt hơn 1,04 tỷ USD; Hàn Quốc đạt 645 triệu USD. Với túi xách, Nhật Bản nhập khẩu hơn 315 triệu USD, trong khi Trung Quốc và Hàn Quốc đạt mức tương tự, khoảng 150 triệu USD; tiếp đến là các Bỉ, Hà Lan, Đức, Vương quốc Anh, Pháp, Canada, Tây Ban Nha, Italy, Australia, Mexico, Ả Rập Xê Út. Tổng kim ngạch xuất khẩu dến 16 nước lớn trên thế giới.

Một số hạn chế về năng lực cạnh tranh ngành da giày Việt Nam

Ngành da giày Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước. Tuy nhiên, ngành da giày Việt Nam vẫn còn một số hạn chế về năng lực cạnh tranh, bao gồm:

Một là, giá trị gia tăng thấp. Dù là nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu cao của ngành lại chủ yếu đến từ khối doanh nghiệp FDI, giá trị xuất khẩu do doanh nghiệp trong nước tạo ra đang thấp, chỉ chiếm tỷ trọng xấp xỉ từ 20 đến 25%. Điều này cho thấy, hiệu quả thương mại quốc tế của ngành đang phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp nước ngoài, do đó nếu không quản lý tốt, thì hiệu quả thu được từ hoạt động xuất khẩu sẽ không bền vững trong tương lai.

Bên cạnh đó, ngành da giày Việt Nam chủ yếu là gia công, phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Hiện nay, có thể thấy hạn chế lớn nhất của ngành da giày Việt Nam là sự phát triển không đồng đều ở các khâu, đặc biệt là ở công đoạn đầu trong chuỗi giá trị sản xuất nguyên liệu, thiết kế mẫu mã. Hàng năm, các doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu các nguyên phụ liệu như: da thuộc, vải kỹ thuật, phụ kiện làm khuôn, đế, chất dẻo, keo dán, hóa chất…

Theo Theo Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (LEFASO), 10 năm trước đây, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm da giày chỉ đạt 40%, hiện mức trung bình tăng lên 55%, cá biệt có những mặt hàng như giày thể thao có thể chủ động 70%-80%, giày vải chủ động gần như 100% nguyên phụ liệu trong nước. Trên thực tế, toàn ngành có 129 doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên, phụ liệu, nhưng chỉ có khoảng 20 doanh nghiệp trong nước đủ sức cung ứng nguồn nguyên liệu cao cấp, khiến cho các nhà sản xuất da, giày khó chủ động được đơn hàng và nguồn nguyên liệu. Hiện nay, với lợi thế giá thành cạnh tranh, vận chuyển thuận lợi, đa dạng chủng loại và chất lượng, Trung Quốc hiện vẫn là nguồn cung nguyên phụ liệu lớn nhất cho ngành da giày Việt Nam, với khoảng 35%; tiếp đến là Thái Lan với 11,8%; Italia 10,3%... (Tâm Anh, 2024). Như vậy, việc sản xuất các sản phẩm da giày tại Việt Nam vẫn còn phụ thuộc lớn vào nguồn cung bên ngoài; điều này gây nhiều bất lợi cho việc chủ động hoạt động sản xuất của ngành da giày nhằm phục vụ yêu cầu xuất khẩu.

Hơn nữa, dù là nước được nhiều hãng giày dép lớn như Nike hay Adidas lựa chọn là nơi đặt công xưởng sản xuất chính, nhưng phần lớn các yếu tố cung ứng đầu vào cho các công ty này lại do các doanh nghiệp FDI thực hiện, khiến cho Việt Nam không tận dụng được hết các lợi thế sau khi thu hút được sự đầu tư của các thương hiệu lớn trong ngành.

Hai là, trình độ công nghệ còn thấp: Trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp da giày Việt Nam chủ yếu sử dụng công nghệ thủ công và công nghệ lạc hậu, dẫn đến năng suất lao động thấp và chất lượng sản phẩm chưa cao. Hầu hết các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, dẫn đến sản phẩm chưa có tính sáng tạo và khả năng cạnh tranh cao. Chất lượng sản phẩm chưa cao khiến cho ngành da giày Việt Nam khó đáp ứng được yêu cầu của thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường khó tính như Mỹ và EU. Công nghệ quản lý chưa hiện đại khiến cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành da giày Việt Nam chưa cao. Sản phẩm chưa có tính sáng tạo và khả năng cạnh tranh cao khiến cho ngành da giày Việt Nam khó giành được thị phần lớn trên thị trường thế giới.

Ba là, khả năng thiết kế của ngành còn thấp. Sản phẩm da giày, cụ thể là giày dép là ngành hàng thời trang, nên cần được thay đổi mẫu mã và kiểu dáng thường xuyên, nhưng doanh nghiệp sản xuất giày dép Việt Nam lại chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không có đủ nguồn lực để đầu tư thiết kế. Do đó, ở Việt Nam chưa có thương hiệu mạnh trong ngành giày dép để xuất khẩu ra nước ngoài. Điều này làm giảm tỷ suất lợi nhuận của ngành do hạn chế về sản xuất và xuất khẩu đối với nhóm mặt hàng có giá trị cao.

Bốn là, hệ thống logistics chưa phát triển hoàn thiện khiến cho chi phí vận chuyển và giao hàng của ngành da giày Việt Nam cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Các hoạt động dịch vụ trong ngành da giày Việt Nam còn chưa được khai thác hiệu quả khiến cho ngành da giày Việt Nam chưa thể tạo ra giá trị gia tăng cao.

Năm là, chất lượng nguồn nhân lực trong ngành da giày Việt Nam còn hạn chế đã ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam. Đặc biệt, nguồn lao động đang trở nên ngày càng khan hiếm, nhất là lao động ở khu vực thành phố hầu như không tuyển dụng được. Doanh nghiệp phải di chuyển về vùng xa để tận dụng nguồn lao động sẵn có. Bên cạnh đó, thái độ làm việc của người lao động chưa chuyên nghiệp khiến cho hiệu quả sản xuất, kinh doanh của ngành da giày Việt Nam chưa cao.

Bên cạnh các hạn chế trên, xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam đang phải đối mặt với các thách thức xuất phát từ xu thế phát triển bền vững từ các thị trường nhập khẩu. Những thị trường xuất khẩu lớn của ngành như Mỹ, EU, Nhật Bản đang đặt ra yêu cầu rất cao về phát triển bền vững, trong đó, có chuyển đổi xanh, ứng dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Các đạo luật của phía EU cũng yêu cầu tính tuân thủ rất cao. Hiện nay, EU đã ban hành các quy định mới về Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon theo lộ trình áp dụng vào năm 2030. Khi đó, yêu cầu mới sẽ tạo ra thách thức lớn cho doanh nghiệp sản xuất giày dép vì đặc trưng của ngành này là có lượng phát thải lớn trong quá trình sản xuất. Vì vậy, nếu tự doanh nghiệp không kịp thay đổi để thích ứng, thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp rủi ro và đánh mất thị trường trên quốc tế...

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DA GIÀY VIỆT NAM

Ngày 29/12/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 (theo Quyết định số 1643/QĐ-TTg). Theo đó, da giày được xác định là một trong các ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước; có sản phẩm chất lượng, cạnh tranh trên thị trường thế giới, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước; giữ vững vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia sản xuất và xuất khẩu sản phẩm da giày hàng đầu thế giới. Mục tiêu đến năm 2030, tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép, túi xách đạt 38-40 tỷ USD. Đến năm 2035, ngành sẽ phát triển hiệu quả và bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn; hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất trong nước; tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển được một số thương hiệu tầm khu vực và thế giới.

Để tiếp tục phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp đạt mục tiêu đặt ra, ngành da giày Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Tham gia sâu vào chuỗi giá trị ngành da giày thế giới

Một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của ngành da giày Việt Nam là việc tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, trong thời gian tới các doanh nghiệp da giày Việt Nam cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, từ khâu bán hàng đến khâu hậu mãi. Đặc biệt, cần đẩy mạnh nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm.

Các doanh nghiệp cần tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường tiềm năng như: châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc..., tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia, để học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận các công nghệ mới.

Nhà nước cần đồng bộ cơ chế, chính sách, các giải pháp cụ thể để thu hút các nhà đầu tư từ các tập đoàn lớn đa quốc gia đến các doanh nghiệp trong nước mong muốn tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu để tập trung đầu tư vào lĩnh vực nguyên phụ liệu.

Bên cạnh đó, cần xây dựng và khuyến khích các địa phương xây dựng ngay các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp chuyên sản xuất các loại nguyên phụ liệu cho da giày như: da thuộc, dệt nhuộm, vải giả da… với hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn.

Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giày dép ở Việt Nam cũng cần nhanh chóng xanh hóa trong mọi quy trình, minh bạch chuỗi cung ứng để đáp ứng các điều kiện xuất khẩu mới và tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất

Ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất da giày là một xu hướng tất yếu, giúp ngành da giày Việt Nam nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh. Một số công nghệ có thể kể đến như công nghệ tự động hóa. Đây là công nghệ giúp thay thế con người trong các công đoạn sản xuất, từ khâu cắt da, khâu may, khâu dán đến khâu đóng gói. Điều này giúp nâng cao năng suất, giảm chi phí sản xuất và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động.

Ngoài ra, công nghệ in 3D nếu được áp dụng có thể tạo ra những mẫu giày dép với thiết kế độc đáo, sáng tạo và phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Bên cạnh đó, công nghệ in 3D cũng giúp tiết kiệm nguyên liệu và thời gian sản xuất. Công nghệ vật liệu mới giúp tạo ra các loại da và phụ kiện giày dép có chất lượng cao hơn, bền hơn và thân thiện với môi trường. Công nghệ thông tin và truyền thông giúp nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất, phân phối và tiếp thị sản phẩm.

Việc ứng dụng công nghệ mới mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp da giày Việt Nam. Công nghệ tự động hóa và in 3D giúp các doanh nghiệp sản xuất giày dép nhanh hơn và nhiều hơn và do đó nâng cao năng suất của các doanh nghiệp, đồng thời làm giảm giúp giảm chi phí nhân công; công nghệ in 3D giúp tiết kiệm nguyên liệu và công nghệ vật liệu mới giúp giảm chi phí bảo dưỡng. Việc ứng dụng công nghệ mới còn có thể giúp tạo ra các sản phẩm giày dép có giá trị cao hơn đáp ứng thị trường cao cấp, giảm thiểu các công việc nặng nhọc và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Để có thể ứng dụng công nghệ mới các doanh nghiệp cần đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển để nắm bắt các xu hướng công nghệ mới trong ngành da giày.

Ngoài ra, việc hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia, để học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận các công nghệ mới là rất cần thiết cho các doanh nghiệp trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành

Hiện, ngành da giày mới chỉ sản xuất được các dòng sản phẩm có chất lượng ở mức trung bình của thế giới. Nếu muốn có sản phẩm giá trị gia tăng cao phải tiến tới sản xuất được sản phẩm chất lượng cao hơn nữa để nâng cao giá trị, từ đó mới thu được lợi nhuận tốt hơn. Để làm được điều này, chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, kỹ năng, tay nghề của lao động thông qua việc triển khai hiệu quả chiến lược đào tạo nghề. Đặc biệt, cần áp dụng các quy định, yêu về chứng chỉ đối với lao động tham gia trong lĩnh da giày./.

Tài liệu tham khảo

1. T. Grundy (2006). Rethinking and reinventing Michael Porter’s five forces model, Strategic change, 15(5), 213–229.

2. Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (2020-2024). Báo cáo xuất nhập khẩu ngành da giày của Việt Nam các năm, từ năm 2020 đến 2024.

3. Nguyễn Minh Phong (2024). Doanh nghiệp da giày khởi sắc, truy cập từ https://kinhtedothi.vn/doanh-nghiep-da-giay-khoi-sac.html.

4. Phạm Thị Hà An (2024). Tình hình xuất khẩu ngành hàng giày dép của Việt Nam, truy cập từ https://eba.htu.edu.vn/tin-t%E1%BB%A9c/425-t%C3%ACnh-h%C3%ACnh-xu%C3%A2%CC%81t-.kh%C3%A2%CC%89u-ng%C3%A0nh-h%C3%A0ng-gi%C3%A0y-d%C3%A9p-c%E1%BB%A7a-vi%C3%AA%CC%A3t-nam.

5. Phan Trang (2024). Ngành Da giày đặt mục tiêu xuất khẩu 29 tỷ USD trong năm 2025, truy cập từ https://baochinhphu.vn/nganh-da-giay-dat-muc-tieu-xuat-khau-29-ty-usd-trong-nam-2025-102241218111822159.htm.

6. Tâm Anh (2024). Ngành dệt may - da giày với mục tiêu tự chủ nguyên liệu, truy cập từ https://daibieunhandan.vn/nganh-det-may-da-giay-voi-muc-tieu-tu-chu-nguyen-lieu-10346578.html.

7. Tổng cục Hải quan (2021-2024). Báo cáo xuất nhập khẩu các năm, từ năm 2020 đến 2023.

8. Tổng cục Thống kê (2024). Báo cáo kinh tế - xã hội quý IV và cả năm 2024.

Ngày nhận bài: 15/5/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 02/6/2025; Ngày duyệt đăng: 09/6/2025